|
TIỂU SỬ 6 THÁNH TỬ ĐẠO
CÓ XƯƠNG THÁNH TÔN KÍNH TẠI
NHÀ THỜ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT
1420 BÉLANGER EST, MONTRÉAL, QC, H2G 1A4 - CANADA
GIẤY CHỨNG NHẬN
(photocopy bản văn vào chỗ này)
TIỂU SỬ 6 THÁNH TỬ ĐẠO
CÓ XƯƠNG THÁNH TÔN KÍNH TẠI
NHÀ THỜ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM MONTRÉAL
(Trích trong
“UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN”
- http://s.daminhvn.net)
1. THÁNH
PHÊRÔ BORIE CAO
Giám mục Borie
Cao chưa làm Giám mục đến một ngày, nhưng ngài
xứng đáng với tước hiệu đó. Căn
cứ vào khả năng và nhiệt tình. Đức cha Havard
Du đã chọn ngài làm Giám mục phó có quyền kế
vị. Cha Cao nhận được giấy quyết
định của Tòa Thánh đang khi ở trong tù, và vì
thế chưa kịp tấn phong. Tên thường gọi
của ngài là Dumoulin do bạn bè đặt (tiếng Pháp
Dumoulin là máy xay lúa). Thế nhưng danh xưng Dumoulin đã
đi vào lịch sử với hai tước hiệu vinh
quang : Giám mục và tử đạo. Quả thật
đối với Chúa, giá trị con người là nhân
đức và thiện chí, dù thuộc giai cấp nào, mọi
người đều được kêu gọi nên thánh.
Khi
Thiên Chúa can thiệp
Phêrô Borie sinh ngày
20.02.1808, tại Beynat miền Correze, thân phụ tên là
Guillaume Borie, thân mẫu là Rose Borie. Thế nhưng vì song
thân làm nghề xay lúa, bạn bè hàng xóm quen gọi cậu là
Dumoulin. Sinh trưởng trong một gia đình bình
thường như vậy, nên thuở bé Dumoulin có tính
cẩu thả. Cha mẹ ép cậu vào chủng viện,
cậu nghe theo nhưng chẳng hứng thú gì, và vi phạm
kỷ luật liên tục. Cha giám đốc phải sử
dụng nhiều hình thức xử phạt cũng
chẳng làm cậu khá hơn được. Tuy vậy,
Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời con
người Ngài tuyển chọn.
Bất ngờ
Borie bị một cơn sốt trầm trọng. Trên
giường bệnh, cậu có cơ hội suy tư
về đời mình. Một hôm đang khi đọc
cuốn niên giám của trường Thừa Sai ghi lại
cuộc đời các vị truyền giáo, cậu thấy
một tia sáng chói lòa trong tâm hồn. Thế là như thánh
Phaolô trên đường Damas xưa, cuộc đời
cậu Borie từ nay chỉ lấy Đức Giêsu làm
lẽ sống, từ đó cậu siêng năng đến
gặp Chúa trong Thánh Thể. Và trong những giờ gặp
gỡ ấy, cậu nghe như Ngài kêu gọi cậu lãnh
nhận một sứ mạng cao quý hơn: Sứ mạng
truyền giáo.
Trong những
giây phút nguyện cầu linh thiêng ấy, Borie như
thấy Chúa nói với mình về vùng Viễn Đông xa
xăm, về những người ở đây còn chưa
biết Chúa, về những thừa sai đã đến
đó loan giảng Tin Mừng và hỏi cậu có yêu Ngài
đủ để ra đi như thế không. Câu trả
lời của Borie đã được chính cậu ghi
lại trong một buổi tận hiến cho Đức
Maria :
"Lạy
Mẹ của con ! Xin hãy tin nơi con, khi con trưởng
thành, con sẽ hiến toàn thân con cho việc cảm hóa
những người chưa tin. Xin Mẹ giúp con đi theo
con đường và tinh thần của ơn kêu gọi
đó. Xin cho con được đau khổ vì danh
Đức Kitô, được đón nhận ngành lá tử
đạo và đến bến vinh quang".
Đức
Mẹ như đã nhận lời cậu. Càng ngày Borie càng
cương quyết hơn với giấc mơ truyền
giáo. Để giấc mơ có thể thành hiện
thực, cậu xin chuyển qua chủng viện Hội
Thừa Sai Paris. Tại đây cậu kiên trì học
tập, lãnh chức phó tế năm 1829, rồi năm sau
thụ phong linh mục (21.11.1830). Ngày 01.12.1830, vị tân linh
mục bắt đầu xuống tàu khởi hành
đến Viễn Đông. Thế nhưng vì bão tố
phải dừng lại ở Macao khá lâu, ngày 15.5.1832, cha
Borie mới tới được Việt Nam.
Vị
tông đồ di trú.
Nửa năm
sau, ngày 06.1.1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm
đạo trên toàn quốc. Các thừa sai bị lùng bắt
gắt gao, nên phải di chuyển liên tục, nay nhà này, mai
nhà khác. Ngày 24.03, cha Borie kể trong thư là "Tôi đã
phải đổi chỗ ở đến 17 lần".
Nhưng năm sau, mỗi năm cha đổi chỗ
khoảng hai đến sáu lần nữa. Nét đặc
biệt của cha Dumoulin là hòa mình rất nhanh với phong tục
địa phương. Ngày đầu tiên, cha đã có
thể ăn nước mắn cách ngon lành (điều này
rất khó với người Châu Âu), cha học tiếng
Việt cách dễ dàng và phát âm khá chính xác. Nhờ bản
tính bình dân vui tươi và hoạt bát, cha nhanh chóng lấy
được cảm tình của các tín hữu và với
cả lương dân nữa.
Năm 1836, khi
đọc những điều vu cáo trong chiếu chỉ
của vua Minh Mạng, cha Borie Cao định viết
một lá thư điều trần, nhưng các thừa sai
cản lại, vì nói là vô ích thôi. Năm 1838, sau khi giết
thừa sai Jaccard Phan, vua Minh Mạng vẫn chưa thỏa
mãn. Ông cho lệnh tiếp tục truy tầm cha Candalh Kim,
Giám đốc chủng viện Di Loan. Ngày 02.7, khi quan quân
bắt linh mục Khoa thì bắt được hai thày
giảng Đức và Khang. Thày Khang lúc bị tra tấn quá
đau, đã khai rằng có một thừa sai Châu Âu ở
Bố Chính, thủ phủ của Nghệ An. Người
bị tiết lộ tung tích đó là cha Cao, không phải là
cha Candalh. Dựa vào lời thày Khang, quân lính bủa vây
khắp vùng Bố Chính, bắt bớ nhiều tín hữu
rồi đe dọa, tra tấn và dụ dỗ, để
tìm cho ra chỗ ẩn của vị linh mục.
Giai đoạn
này cha Cao không thể ở nhà nào được đến
vài giờ, luôn luôn ngài phải di động. Các tín hữu
có người muốn cho trú, nhưng lại sợ người
khác khi bị đánh đập, sẽ tố cáo họ.
Cuối cùng ngày 13.7, cha Cao đành xuống một thuyền
nhỏ chèo ra khơi, chờ mong cuộc lùng bắt
lắng dịu. Nhưng trời bỗng nổi cơn giông
bão, dồn ghe của cha tấp vào bờ. Cha nghĩ
rằng đây là dấu Chúa muốn mình ở lại, cha bỏ
ghe trở lên đất liền, và ẩn núp dười
một hố sâu có cây cối che phía trên.
"Các
anh đi tìm ai ?"
Một thiếu
nữ 16 tuổi bị bắt và bị tra khảo. Dù
biết chỗ cha ẩn trốn, cô cắn răng chịu
đựng, không tiết lộ điều mình biết.
Nhưng bố cô không dằn lòng được khi thấy
con mình bị đánh đập, đã chỉ chỗ cho
lính đến chỗ nơi ẩn trốn của ngài.
Dầu đang giữa đêm, quân lính cũng kéo nhau rất
đông đi bắt vị thừa sai. Cha Cao nghe rất rõ
tiếng chân của đám lính, biết rằng không thể
thoát được nữa, cha liền lao lên và hỏi :
"Các anh đi tìm ai ?". Tất cả đám lính
đều ngỡ ngàng trông thấy một bóng đen to
lớn từ dưới đất chui lên, họ cứ
tưởng là ma, nên hoảng sợ không dám hé môi. Lát sau, khi
lấy lại bình tĩnh, biết là linh mục, họ yêu
cầu cha ngồi xuống, và cha Cao nhẹ nhàng ngồi
xuống. Ngài muốn bước vào cuộc hiến tế
bằng một thái độ vâng phục hoàn toàn.
Thày Tự
thấy cha bị bắt cũng vội chạy đến
xưng là đệ tử của cha. Cha định không
nhận, nhưng thày khẩn khoản : "Xin cha cho con theo
cha đến cùng". Cha Cao nghe thày xin thế thì xúc động,
ngài tháo chiếc khăn quàng, xé một mảnh trao cho
người môn sinh và nói: "Cầm lấy, con hãy giữ
nó làm bằng chứng cho lời con đã hứa". Thày
Tự đã giữ mãi miếng vải đó trong những
ngày tháng cùng bị giam với cha. Sau này, thày đã viết
lại cuộc tử đạo đau thương
của Tôn Sư mình. Và cuối cùng, với mảnh vải
như kỷ vật giao ước, thày Tự đã theo gót
người cha kính yêu: hy sinh mạng sống vì Đức
Kitô ngày 01.7.1840.
Tại
Đồng Hới, cha Cao phải ra tòa chung với cha
Điểm và cha Khoa. Quan hỏi: "Đạo
trưởng Cao, vua đã cấm Gia Tô. Nếu ông
bước qua Thập Giá, ta sẽ thả ông về
ngay". Cha trả lời: "Thà tôi chết ngàn lần
còn hơn". Quan hỏi tiếp: "Tại sao ông không
về nước mà giảng, ở đây làm gì để
phải trốn tránh hết chỗ này đến chỗ
khác?". Cha đáp: "vua cấm đạo sau khi tôi
đã đến nước này, từ đó vua cấm tàu
Âu Châu cập bến Việt Nam thì làm sao tôi có thể
về được". Quan lại hỏi: "Ông
đã ở nhà những ai ?". Cha trả lời: "Tôi
đã bị quan bắt, tôi xin chịu cực hình một
mình tôi thôi". Quan liền ra lệnh đánh cha 30 roi, lính
nọc cha ra, đánh cho đủ số. Tuy rất đau
đớn, cha Cao vẫn không kêu than một lời, quan
hỏi ngài có đau không, cha đáp: "Tôi cũng bằng
xương bằng thịt như ai khác, lẽ nào không
đau. Nhưng mặc kệ, trước và sau trận
đánh tôi vẫn thấy thoải mái".
Quan đành
giải cha về ngục, hôm khác, quan bắt cha chứng
kiến cảnh tra tấn thày Tự, nhưng đến
khi thẩm tra lại, ông gọi cha Cao ra đối
chất: - Tại sao ông cứng đầu thế? -
Thưa, câu hỏi của ngài tôi không trả lời khác
hơn được. - Đã vậy ngày mai ông sẽ
chịu 100 roi. - Thưa dù đánh 300 roi tôi cũng chịu,
chỉ xin một điều là đừng hỏi tôi
về dân chúng. - Thế nếu ông phải ra mắt vua,
đứng bên lò lửa cháy bừng, với những
chiếc kìm nung đỏ sắt lóc thịt ông ra, liệu
ông còn im lặng được không? - Thưa, chừng
đó sẽ biết, tôi không dám quá tự phụ về
mình.
Biết không
thể làm cha đổi ý, quan liền nghị án gởi
về kinh đô. Cha Cao bị giam chung với hai cha
Điểm và Khoa, ba vị linh mục hằng ngày cùng nhau
đọc kinh Mân Côi và hát vang bài "Ave Maria Stella": Kính
chào Mẹ Maria là Sao Mai rực rỡ, xin chuyển cầu
cho chúng con". Mấy ngày đầu, vì chưa tìm ra tràng
hạt, ba vị nhổ lông quạt để đếm
kinh. Ba cha phó thác đời mình cho Nữ Vương các linh
mục : "Như xưa Mẹ đã dâng Con yêu quý trong
đền thờ, nay cũng xin hiến dâng chúng con trong
cuộc tử đạo đầy hồng phúc".
Trong những
ngày tù tội, cha Cao nhận được văn thư
Tòa Thánh gởi tới, đặt ngài làm Giám mục hiệu
tòa Acanthe và làm Đại diện Tông tòa coi sóc giáo phận
Tây Đàng Ngoài, thay thế Đức cha Harvard Du. Thế
nhưng, vì đang bị cầm tù, ngài không thể tiến
hành nghi lễ tấn phong. Chức vụ đó sau này
được trao cho cha Retord Liêu.
Đường
về Thiên Quốc…
Ngày 24.11.1838, quan
vào ngục tuyên đọc bản án xử trảm.
Đức cha Cao yên lặng lắng nghe sắc chỉ
của nhà vua, rồi nói với quan rằng : "Thưa
quan, từ bé đến nay tôi chưa lạy ai, vì bên Âu Châu
chúng tôi, đó là hành vi kính trọng chỉ dành cho
Đấng Tối Cao. Nhưng điều tôi vừa nghe
làm tôi quá vui mừng, xin được bày tỏ lòng tri ân
của tôi theo kiểu Đông Phương". Nói xong, ngài
quỳ xuống định lạy, nhưng viên quan quá xúc
động, không thốt lên lời, vội cản ngăn
ngài lại.
Lúc dẫn đi
xử, Đức cha Cao đi đầu, cổ mang gông, tay
cầm tràng hạt, vừa đi vừa đọc kinh Mân
Côi. Một viên quan khác, ít thiện cảm với
người Công Giáo đi lại gần, hỏi
Đức cha có sợ chết không. Ngài trả lời :
"Tôi đâu phải là quân phiến loạn hay quân
trộm cướp mà sợ chết. Tôi chỉ sợ
một mình Thiên Chúa. hôm nay tôi chết, mai sẽ đến
phiên ông". Nghe thế, viên quan thét lên: "Láo quá! Tát cho nó
vài cái". Nhưng không người lính nào tuân lệnh ông.
Đức cha nói với quan : "Nếu lời đó làm
phiền ông thì xin ông tha lỗi".
Tại pháp
trường Đồng Hới, hai cha Khoa và Điểm
bị xử giảo trước. Đến lượt
xử chém Đức cha Cao, người lý hình rất kính
phục ngài, phải uống rượu để lấy
bình tĩnh, không ngờ vì quá ché, anh đã chém trật vào
tai, hàm và vai Đức cha. Mãi đến nhát thứ
bẩy, đầu vị thừa sai mới lìa khỏi
cổ. Thân xác ngài được chôn cất ngay tại
chỗ, năm sau mới được các tín hữu
cải táng về họ Hướng Phương.
Năm 1843, hài
cốt Đức cha Cao được đưa về
chủng viện Hội Thừa Sai Paris, đặt
cạnh hài cốt các thừa sai Gagelin Kính và Jarcard Phan.
Đức Lêo
XIII suy tôn Giám mục Borie Cao lên bậc Chân Phước ngày
27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên
bậc Hiển thánh.
An
vui trong hiểm nguy
Phêrô Vũ
Đăng Khoa sinh năm 1790 tại Thượng Hải làng Thuận Nghĩa,
huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Cậu là con
thứ ba trong bẩy người con ông Phaolô Vũ Đình
Tân và bà Maria Nguyễn Thị Hoan. Lên tám tuổi, cậu Khoa
được học chữ Nho, rồi tiếp tục
học thêm với hai linh mục Hòa (Hoan) và Phương.
Nhận thấy cậu có trí thông minh, tính tình hiền lành và
có ý dâng mình cho Chúa, hai cha đã gửi cậu vào học
tại chủng viện Vĩnh Trị (Nam Định),
dưới sự giáo huấn của cha chính Jeantet Khiêm.
Năm 1820, thày Khoa được lãnh chức linh mục.
Với nhiệt
tình của người thanh niên 30 tuổi, cha Vũ
Đăng Khoa được bổ nhiệm làm phụ tá
cho cha Nguyễn Thế Điểm, coi sóc hai xứ Lu
Đăng và Vĩnh Phước, thuộc hạt Bố
Chính. Trong thời gian chín năm làm phụ tá, cha Khoa đã
hăng say trong nhiệm vụ, học hỏi thêm trong
chức vụ chủ chăn. Nhờ có đời sống
đạo đức và niềm nở với mọi
người, cha đã thu được nhiều thành
quả tốt đẹp. Năm 1829, Đức cha Havard Du
bổ nhiệm cha về coi sóc giáo xứ Cồn Dừa.
Về nhận xứ mới, cha Khoa đã vận dụng
hoàn cảnh thuận lợi, khiến cho công tác mục
vụ ngày càng tiến triển không ngừng. Trong những
công việc bận rộn của giáo xứ, cha vẫn
giữ được nét trang nghiêm, nói năng điềm
đạm, nhất là luôn quảng đại, nhân từ,
nên được mọi người kính nể và yêu
mến.
Ngày 06.1.1833 vua
Minh Mạng ra chiếu chỉ tòan quốc : Lùng bắt các
giáo sĩ nước ngoài cũng như bản xứ,
kể cả các tín hữu, triệt hạ các thánh
đường và các cơ sở tôn giáo. Nhất là sau
chiếu chỉ thứ ba ban hành ngày 25.1.1836, cha Khoa phải
thay đổi chỗ ở luôn để có thể
tiếp tục công tác mục vụ trong hai năm liền
(1836 – 1838). Mặc dù hoàn cảnh bất lợi và nhiều
hiểm nguy, cha vẫn an vui vì thấy mình đang sống
như Chúa Giêsu xưa "cáo có hang, chim có tổ, nhưng
Con Người không chỗ gối đầu".
Trọn
đường khổ giá
Người môn
đệ của Chúa Kitô, cha Phêrô Vũ Đăng Khoa
đâu ngờ mình sắp được chia sẻ con
đường khổ nạn theo chân Thày Chí Thánh. Đó là
đêm 02.7.1838, cha đang trú ẩn ở làng Lê Sơn,
hạt Bố Chính thì một văn nhân tên là Tú Khiết
đột nhập vào nhà bắt trói cha cùng với thày
giảng Đức và Khang. Sau đó Tú Khiết tra gông vào
cổ, giải tất cả các ngài lên Đồng Hới,
thuộc tỉnh Quảng Bình ngày 10.7.1838.
Tại công
đường Đồng Hới, quan tra vấn cha Khoa
nhiều lần, khuyên dụ cha bỏ đạo và khai báo
chỗ ở của linh mục thừa sai Candalh Kim. Quan ra
lệnh đánh cha 76 roi để uy hiếp tinh thần,
nhưng quan vẫn chẳng khai thác được
điều mong đợi. Không thành công trong việc tra
khảo cha Khoa, quay sang hai thày giảng Đức và Khang.
Thày Khang khai báo sao đó, khiến quan tìm ra nơi trú ẩn
của thừa sai Cao và cha Điểm. Ít lâu sau, hai vị
này cùng bị bắt giam chung với cha Khoa (31.7).
Quan tiếp
tục thi hành nhiều mưu kế và khổ hình
để lung lạc đức tin cha Khoa cùng các vị
khác. Là linh mục, là chủ chăn, làm sao lại có thể
chối Chúa được, cha Khoa cương quyết
đi trọn con đường khổ nạn. Các quan thua
cuộc và quyết định lên án xử giảo cha. Các
quan đệ án vào kinh đô xin nhà vua phê chuẩn cùng
với án trảm quyết thừa sai Cao và án xử
giảo cha Điểm. Từ đó ba chiến sĩ
đức tin mong đợi ngày vinh quang sắp tới, phó
thác đời mình qua tay Đức Mẹ.
Ba vị linh
mục hàng ngày cùng nhau đọc kinh Mân Côi và hát vang bài
"Ave Maria Stella" kính chào Mẹ maria, là Sao Mai rực
rỡ, xin chuyển cầu cho chúng con". Mấy ngày
đầu vi chưa tìm ra tràng hạt, ba vị nhổ lông
quạt để đếm kinh Mân Côi. Ba cha phó thác
đời mình cho Nữ Vương các linh mục như
xưa Mẹ đã dâng Con Yêu Quý trong đền thờ, nay
cũng xin Mẹ hiến dâng chúng con trong cuộc tử
đạo đầy hồng phúc.
Trong những
ngày tù tội, cha Cao nhận được văn thư
Tòa Thánh gửi tới, đặt ngài làm Giám mục
hiệu tòa Acanthe và làm đại diện Tông tòa coi sóc giáo
phận Tây Đàng Ngoài, thay thế Đức cha Havard Du.
Vua Minh Mạng châu phê bản
án và ban lệnh thi hành. Ngày 24.11.1838, quân lính áp giải cha
Khoa, Đức cha Cao và cha Điểm đến pháp
trường ngoài thành Đồng Hới. Tấm thẻ
ghi án của cha Khoa viết: "Đạo trưởng
Vũ đăng Khoa, bất khẳng quá khóa, phải
xử giảo".
Đến
nơi chỉ định, cha quỳ xuống cầu
nguyện. Lý hình tròng dây vào cổ cha. nghe hiệu lệnh,
lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho
đến khi vị anh hùng đức tin nghẹt thở
và lịm dần. Với 48 tuổi đời và 18 năm
linh mục, cha Phêrô Khoa đã thi hành trọn vẹn chức
vụ linh mục của mình : Hòa với của lễ vô
giá là đức Kitô, cha hiến tế chính mạng sống
mình để dâng lên Thiên Chúa Cha, Đấng hằng yêu
thương nhân loại.
Đức Lêo
XIII suy tôn cha Phêrô Vũ đăng Khoa lên bậc Chân
Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô
II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
3. THÁNH
PHÊRÔ ĐOÀN CÔNG QUÝ
Những
năm thơ ấu.
Ông Antôn Đoàn
Công Miêng và bà Anrê Nguyễn Thị Thường sinh sống
ở Bắc Việt cho đến năm 1820. Cả gia
đình di cư vào Nam ở tại họ Búng, làng Hưng
Thịnh, tổng Bình Thạnh, hạt Thủ Dầu
Một (nay là tỉnh Bình Dương). Năm 1826,
người con trai út, Phêrô Đoàn Công Qúi chào đời.
Đây là người con thứ sáu trong gia đình và là hy
lễ của gia đình ông Miêng hiến dâng cho Thiên Chúa.
Vì thấy
cậu út rất thông minh, nên ông Miêng cố lo liệu
để cậu chuyên chăm theo đường học
vấn, với hi vọng mai sau nối dòng thi lễ, làm
vẻ vang cho cả gia tộc. Nhưng Thiên Chúa muốn cho
người con út này đi theo con đường khác.
Cậu Quý thường lui tới và học hỏi cha Tám
ở nhà thờ họ Búng. Một thời gian sau, cậu
xin phép cha mẹ được ở luôn với
người, thỉnh thỏang mới về thăm gia
đình.
Theo
tiếng Chúa gọi
Năm 1847, cha
Tám giới thiệu chàng trai 21 tuổi này với cha Gioan
Miche Mịch để được học hỏi
tiếng La tinh và tiếp tục theo đuổi ơn
gọi tu trì. Sau khi học tiếng La tinh tại nhà cha
Mịch, cậu Quý được học tại chủng
viện Thánh Giuse (Thị Nghè) do cha Borelle làm giám đốc.
Năm 1848, thày Quý du học tại đại chủng
viện Hội Thừa Sai Paris ở Pénang (Mã Lai). Tại
đây, thày học triết lý và thần học, ngôn
ngữ, văn chương. Việc huấn luyện
như thế được coi là khá đầy đủ
cho một linh mục thuộc miền truyền giáo trở
về hoạt động tại quê hương.
Trên
con đường xứ vụ
Năm 1855, thày
Quý hồi hương vào thời kỳ vua Tự
Đức ra sắc chỉ cấm đạo gắt gao.
Tháng 9.1855, vua Tự Đức ra chiếu chỉ thứ
ba, trong đó không những lùng bắt các đạo trưởng,
mà còn bắt cả giáo hữu phải xuất giáo,
triệt hạ các thánh đường, phá hủy các cơ
sở tôn giáo …
Với hoàn
cảnh bất lợi này, Đức cha Lefèbvre Nghĩa trao
cho thày nhiệm vụ săn sóc, dạy dỗ, động
viên các giáo hữu tại các họ đạo. Qua một
thời gian hoạt động, thày tỏ ra là người
nhiều khả năng, nên Đức cha đã truyền
các chức nhỏ cho thày. Sau ba năm thi hành việc
mục vụ tại các giáo họ, tháng 9.1858, thày Quý đã
được lãnh chức linh mục tại nhà thờ
Thủ Dầu Một. Sau một thời gian phục
vụ tại các giáo xứ Lái Thiêu, Gia Định và
Kiến Hòa, Đức cha bổ nhiệm cha Phêrô Quý làm phó
xứ Cái Mơn (Vĩnh Long).
Cha Phêrô Quý
được tuyển chọn vào cánh đồng
truyền giáo trong giai đoạn đặc biệt
của đất nước : Pháp và Tây Ban Nha đem quân
đánh phá ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) vào tháng 9.1858 làm
cho vua Tự Đức càng thêm căm ghét các giáo sĩ
nước ngoài và Đạo Thiên Chúa. Do đó, cuộc bách
hại ngày càng khốc liệt hơn. Nhưng nhiệt tình
truyền giáo đã làm cho cha Quý vượt thắng mọi
gian khổ, đe dọa, hiểm nguy. Chỉ ba tháng sau khi
cha về Cái Mơn, quân lính bao vây Dòng Mến Thánh Giá Cái
Mơn để lùng bắt giáo sĩ, nhưng không có
vị nào ở đó, nên lính bắt giam một tu sĩ
nữ để tra tấn, khai thác các chị về
chỗ ở của các ngài.
Nghe tin các nữ
tu bị bắt, cha Quý muốn nộp mạng để
lính tha cho chị em, nhưng giáo hữu ngăn cản và
không để cha thực hiện ý định này. Cha vẫn
ao ước sẵn sàng hy sinh tính mạng để
thế cho các chị. Cha chỉ bỏ ý định này khi
có lệnh rõ ràng của Cha Bề Trên giáo phận Borelle Hòa.
Từ đó cha cải trang thành thường dân, đi
thăm viếng, an ủi và ban các bí tích cho các giáo hữu.
Chặng
đường khổ giá
Đức cha
bổ nhiệm cha Quý về giáo họ Đầu
Nước ở Cù Lao Giêng, tỉnh An Giang ngày 27.12.1858 thì
mười ngày sau (07.01.1859) quan Tổng đốc An Giang
được mật báo có Tây dương đạo
trưởng trú ẩn tại nhà ông Lê văn Phụng
ở Đầu Nước. Quan sai 100 lính đến bao
vây nhà ông Phụng. Khi lính gần đến làng, giáo hữu
tới báo tin cho gia đình ông Phụng. Nghe tin này, cha Pernot
Định đã đề nghị với cha Quý cùng đi
trốn, nhưng cha Quý bình tĩnh trả lời:
"Tôi là
người bản xứ chắc quan quân khó nhận ra, cha
cứ đi trước, tôi ở lại thu dọn
đồ lễ khỏi gây phiền hà cho chủ nhà và giáo
họ, rồi sẽ theo sau". Sau khi cha Pernot ra khỏi
thì quan quân ập tới. Cha Quý chạy vào ẩn nấp
dưới sàn nhà, quan ra lệnh cho ông Phụng phải
nộp đạo trưởng Tây như đã
được mật báo. Ông Phụng cương quyết
trả lời là không có ai là đạo trưởng Tây
cả. Quan dọa là nếu không tuân lệnh thì sẽ
bị đánh đòn. Thấy lính sắp đánh đòn
chủ nhà, cha Quý tự ra nhận mình là đạo
trưởng. Lính không chịu nghe và nói chắc chắn là
có tên đạo trưởng Tây ở trong nhà này. Cha Quý
lại cương quyết khẳng định : "Không
có Tây dương đạo trưởng nào ở đây,
chỉ có tôi là đạo trưởng. Ai muốn theo
đạo tôi sẵn sàng chỉ dậy".
Thấy cha Quý
còn rất trẻ, quan không tin ngay liền hỏi em nhỏ
10 tuổi, cháu nội của ông Phụng xem đạo
trưởng là ai. Nó chỉ vào cha Quý và thưa :
"Bẩm, ông này ạ". Lính liền trói cha Quý, ông
Phụng và 32 giáo hữu, rồi xiềng xích giải
về Châu Đốc. Đến Châu Đốc, lính áp
giải cha Quý đến quan tổng đốc. Quan
thẩm vấn cha nhiều điều và hứa sẽ tha
cho cha nếu cha tuyên bố bỏ đạo, theo như
chiếu chỉ nhà vua. Nhưng cha Quý vẫn kiên quyết
nhận mình là đạo trưởng, không bao giờ
bỏ đạo Thiên Chúa.
Lần khác quan
nói với cha: "Thày là người thanh liêm, nhân từ,
đức hạnh, tại sao lại mê theo tà đạo,
hãy nghe ta mà bỏ đạo đó đi". Cha Quý trả
lời: "Dạ, thưa quan tôi là người giảng
dạy đạo này, sao lại có thể bỏ
đạo cho được ? Vả nữa, đây là chính
đạo, vì chỉ dậy điều tốt lành,
chứ không phải là tà đạo như quan hiểu lầm
đâu". Quan ra lệnh tống giam cha và sau đó dùng
nhiều phương kế dụ dỗ đe nạt, tra
tấn hòng làm thay đổi lập trường của
cha. Nhưng cha vẫn một lòng trung kiên với chính
đạo. Sau cùng, quan thảo bản án trảm quyết
gửi về kinh đô. Bảy tháng trong ngục, cha Quý
động viên các bạn tù, cử hành bí tích, nguyện
ngắm và đọc kinh Mân Côi với họ. Một giáo
hữu đến thăm cha, có cả linh mục bản
quốc cải trang để vào giải tội và cho cha
rước Thánh Thể.
Tình
thương với thân mẫu
Dù sống trong
cảnh tù ngục, cha Quý vẫn tưởng nhớ
đến thân mẫu của mình (thân phụ đã qua
đời). Cha gởi thơ kính thăm và báo tin cho thân
mẫu biết tin mình sắp được phúc tử
đạo.
Ký vụ thân mẫu đôi
chữ trưởng tri
Sau
ba tiếng chuông ngân
Ước
vọng hiến dâng trọn vẹn cuộc đời cho
Thiên Chúa của cha Phêrô Đoàn Công Quý đã được
chấp nhận. Ngày 30.07.1859, bản án trảm quyết cha
được gởi từ kinh đô về đến
Châu Đốc cùng với bản án ông Emmanuel Lê Văn
Phụng. Sáng hôm sau (31.07), cha Quý và ông Phụng hớn
hở đi ra pháp trường ở xóm Chà Và cùng với
quan quân và giáo hữu. Người lính đi trước tay
cầm tấm thẻ của cha Quý và thỉnh thoảng
đọc to:
"Tự
Đức thập tam, An Giang tỉnh, kỷ vị niên, thất
nguyệt, sơ nhị nhật. Đến
nơi xử án, hai vị chứng nhân Chúa Kitô: cha Quý và ông
Phụng, cùng qùy xuống cầu nguyện. Sau đó, cha Quý
giải tội cho ông Phụng. Giờ hành xử đã
đến, ba tiếng chuông vang lên giữa pháp
trường, lý hình chém cha Quý ba nhát gươm, đầu
cha lìa khỏi thân mình và rơi xuống đất. Vị
tử đạo giã từ cõi đời trở về quê
hương vĩnh cửu với tuổi đời 33, sau
một năm thi hành chức vụ linh mục. Thi hài
vị tử đạo được an táng tại nhà
thờ Năng Gù, sau được cải táng về
chủng viện Cù Lao Giêng năm 1959, nhân dịp bách chu niên
cuộc tử đạo.
Đức Piô X
suy tôn Chân Phước cho cha Phêrô Đoàn Công Quý ngày 02.05.1909.
Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc
Hiển thánh.
4. THÁNH TÔMA TRẦN
VĂN THIỆN
Tuổi
trẻ hào hùng
Trong một phiên
tòa năm 1836, viên quan án xúc động trước
người tù trẻ tuổi với dáng dấp thư sinh
nho nhã, khuân mặt khôi ngô tuấn tú, hứa hẹn một
tương lai sán lạn, ông nói với anh thật dịu
dàng : "Nếu con bỏ đạo, ta sẽ gả con
gái cho, và sẽ lo liệu cho con làm quan".
Chàng thanh
niển trẻ tuổi ấy, anh Tôma Trần Văn
Thiện đã thẳng thắn trả lời : "Tôi
chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng chi
danh vọng trần thế".
Tuy mới 18 xuân
xanh, lứa tuổi yêu đời ham sống, chưa
nếm mùi khổ đau cuộc đời, cũng chưa
được học tập thâm sâu về giáo lý, anh Tôma
Thiện mới vừa tới ngưỡng cửa
chủng viện, đã ứng phó khéo léo trước
bạo lực, đâu thua kém gì bất cứ chiến
sĩ đức tin nào khác trên hoàn cầu. Quả thực,
anh đã anh đã thấu hiểu lời đức Kitô :
"Được lời lãi cả thế gian mà mất
linh hồn thì có ích gì" (Mt.16,26).
Con
muốn "ở chú" với cha không ?
"Chú
Thiện" như người đương thời
quen gọi các chủng sinh, sinh năm 1820 trong một gia
đình đạo hạnh làng Trung Quán, tỉnh Quảng
Bình.
Nữ tu Madalena
Yến, một nhân chứng sống cùng thời thuật
lại rằng : "Chú Thiện có một người dì,
gọi là dì Nghị, làm bà nhất nhà phước Trung Quán.
Chú thường lui tới thăm dì và tỏ ra rất ngoan
ngoãn, nhu mì, lễ phép. Khi linh mục đến dâng lễ
ở họ nhà, chú quỳ dự lễ cách nghiêm trang. Lên
tám, chín tuổi, chú bắt đầu học chữ Nho,
tỏ ra thông minh bền chí và tiến bộ rất nhanh.
"Có lần
chú theo dì Nghị đi lễ ở họ Mỹ
Lương, sau lễ vào chào các linh mục. Các cha thấy
cậu bé khôi ngô, hiền lành đều hỏi : Con có
muốn ở chú (đi tu) với cha không ? Cậu Tôma
Thiện không thưa gì. Nhưng, chỉ ít lâu sau,
người ta thấy chú thường xuyên ở nhà cha
Chính, họ Kẻ Sen. Vị linh mục này đã dạy
tiếng Latinh cho chú nhiều năm…"
Hãy
nhìn xem máu tôi chảy ra kìa
Nhờ tính tình
tốt lành và trí thông minh, năm 18 tuổi (1838), chú
Thiện được cha giám đốc Candalh Kim gọi
về chủng viện Di Loan, Quảng Trị. Nhận
được tin, chú Thiện cùng với người
chị tên Sao hăng hái lên đường. Dọc
đường hai chị em gặp nữ tu Yến từ
Di Loan về cho biết cha bề trên Candalh Kim đã phải
trốn và quân lính đang lùng bắt, rồi khuyên hai
chị em đừng đi nữa, nhưng chú Thiện
tỏ ra cương quyết : "Dầu không gặp cha Bề
Trên, con cũng phải đến tận nơi để
biết rõ sự thể. Cha đã gọi, không lẽ
chưa đến nơi đã bỏ về".
Tới chủng
viện, hai chị em trình diện với cha Tự. Ngài nói
: "Chúng tôi lo trốn chưa xong mà chị còn dẫn em
đến, chỉ làm khó khăn thêm cho chúng tôi thôi". Chị
Sao đáp: "Thưa cha, em con nhờ con dẫn đi, vì
có giấy cha Bề trên gọi. Chúng con không biết
cuộc bắt đạo lại xảy ra bất ngờ
như thế".
Hai ngày sau, quân
lính bao vây làng Di Loan, lục soát từng nhà. Không tìm thấy
cha Kim, nên truyền tra hỏi cặn kẽ để biết
cha Bề trên trốn ở đâu. Quan khuyên chú chối
đạo, nếu không sẽ bị chết. Chú Thiện
thành thật trả lời: "Tôi quê ở Trung Quán,
Quảng Bình, đến tìm thày học đạo.
Đạo dạy tôi thờ Thiên Chúa là đạo thật,
tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ
đạo".
Quan tỏ ra khoan
nhượng khuyên dụ chú Thiện nhiều lần : nào
là tuổi còn nhỏ, tương lai còn nhiều triển
vọng, nào là sẽ thăng quan tiến chức nếu
bỏ đạo. Hơn thế nữa, quan còn muốn
nhận chú làm con rể mình, và sẽ đứng ra lo
liệu cưới xin. Nhưng chú Thiện đã từ
chối: "Tôi chỉ mong chức quyền trên trời,
chứ không màng đến quyền chức trần
thế.
Lời khẳng
khái ấy không phải ai cũng thốt ra được.
Trong số những người bị bắt, nhiều
người tỏ vẻ luyến tiếc cho chú đã bỏ
lỡ một "cơ hội ngàn vàng". Chàng trai có dáng
vóc thư sinh nhưng chí khí thật kiên cường,
khiến quan phải ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên
đến tức giận, vì dám xúc phạm đến
sự "bao dung" và lòng "ưu ái" của mình,
thế là ông truyền đánh đòn chàng. 40 roi đòn
quất trên thân thể gầy yếu, máu chảy thấm
qua y phục, nhưng vị chứng nhân không lay chuyển,
vẫn gan dạ mỉm cười nói : "Hãy nhìn xem máu
tôi chảy ra kìa".
Thấy chú cam
đảm hơn người, quan truyền đóng gông
xiềng giam chú Thiện vào ngục.
Trong ngục
thất, Tôma Thiện không có bà con thân thích nào đến
chăm nom tiếp tế. Các giáo hữu Di Loan cũng
bị bắt, lúc đầu con chia sẻ cho chú đôi chút
lương thực, nhưng sau họ không cho gì nữa.
Họ đã nghe quan dụ dỗ để mong trở
về với gia đình. Tuy thế quan vẫn chưa
thả họ ngay. Vì muốn chú Thiện cũng phải
khuất phục, quan dùng những kẻ nhẹ dạ này
gây áp lực, nhưng Tôma Thiện trước sau vẫn
một mực trung thành với đức tin.
Chú Thiện
tiếp tục bị thẩm vấn và bị đánh
đòn hai lần nữa, nhưng chú vẫn vui vẻ lãnh
nhận. Mỗi lần roi quất xuống, chú lại
cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin thêm sức cho con
chịu đau khổ vì Chúa". Ngoài ra chú còn bị
phơi nắng và bị kìm kẹp, nhưng vị anh hùng
trẻ tuổi vẫn không sờn lòng, chứng tỏ
một nghị lực phi thường và một
đức tin hiếm có.
Đồng
khổ, đồng vinh
Sau khi bất
lực trước ý trí sắt đá của Tôma Thiện,
quan truyền giam chú chung với cha Jaccard Phan. Hai cha con
gặp nhau vui mừng hết sức. Chú Thiện
được cha an ủi, khích lệ và ban bí tích hòa
giải. Riêng cha Phan thì sung sướng hãnh diện có
một người con tinh thần dũng cảm trong
đức tin. Hai cha con cùng nhau cầu nguyện, nâng
đỡ trợ gíup lẫn nhau và quyết chí trung thành
với đạo đến cùng.
Trước tinh
thần bất khuất của hai chứng nhân Chúa Kitô, quan
quyết định lên án xử trảm cả hai. Bản
án chú Thiện như sau : "Tên Thiện bị mê hoặc
theo Gia Tô, dầu bị tra tấn cũng không bỏ
đạo, nên nó phải chết giống như
đạo trưởng của nó".
Bản án
gởi về kinh đô. Gần một tháng sau vua Minh
Mạng mới châu phê và đổi thành án xử giảo.
Có lúc nóng lòng trờ đợi, chú Thiện thưa với
cha Phan : "Thưa cha, người ta cứ để cha
con ta sống lâu mãi, sao không sớm cho cha con ta
được tử đạo, để
được kết hiệp cùng Chúa muôn đời".
Chú cũng viết thư về gia đình vĩnh biệt
cha mẹ, họ hàng, và khuyên mọi người trung thành
giữ vững đức tin.
Sáng ngày 21.9.1838,
hai cha con chứng nhân Chúa Kitô cùng được dẫn ra pháp
trường ở làng Nhan Biều gần Quảng trị.
Khi đi qua một quán ăn, viên đội chỉ huy cho
hai vị dừng chân, ăn uống theo thói quen dành cho
tử tội. Cha Phan không dùng gì cả, chú Thiện thưa
với cha: "Con cũng không ăn, để về
dự tiệc Thiên Đường vĩnh phúc, phải
không cha?" Tới nơi xử, chú Tôma Thiện quỳ
xuống trước mặt cha, lính tháo gông, tròng dây vào
cổ. Lệnh xử ban hành, họ kéo hai dầu dây
thật mạnh, đầu vị tử đạo 18 xuân
xanh gục xuống. Sau đó, đến lượt cha
Phan cũng bị xử như vậy.
Khác với các
tử đạo trước, cuộc hành quyết này không
có giáo hữu đi theo để xin an táng. Những
người ngoại đã chôn cất hai vị ngay ở
pháp trường. Năm 1847 thi hài vị tử đạo
được cải táng về tôn vinh tại chủng
viện Hội Thừa Sai Paris.
Ngày 27.05.1900
Đức Lêo XIII đã suy tôn chủng sinh Tôma Trần
Văn Thiện lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988,
Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
Liều
thân vì đại nghĩa
Năm 1844, theo
lời yêu cầu của Đức cha Cuénot Thể,
Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI chia giáo phận Đàng Trong
thành hai giáo phận : Giáo phận Đông gồm các tỉnh
miền Trung, và giáo phận Tây gồm các tỉnh Miền
Nam và Campuchia. Giáo phận Tây được giao cho
Đức cha Lefèbvre Nghĩa, khi đó đã bị trục
xuất và đang ở Singapour. Phải đưa
Đức cha về giáo phận, đó là điều mong
ước của toàn thể tín hữu và hàng giáo sĩ
ở Nam Việt. Thánh Matthêu Gẫm đã đứng ra
đảm nhiệm công tác này, dù đã lường
trước được những nguy hiểm
đến tính mạng. Và thực tế, ngài đã bị
bắt và đã hy sinh vì sứ mạng này. Tấm
gương sáng ngời của thánh nhân sẽ muôn
đời sống mãi trong lòng các tín hữu Việt Nam yêu
mến Giáo Hội mình.
Người
gia trưởng gương mẫu
Matthêu Lê Văn
Gẫm chào đời năm 1813 thời vua Gia Long, tại
họ Tắt, thuộc làng Long Đại, xứ Gò Công,
tỉnh Biên Hòa (nay thuộc quận 9, TPHCM). Là con
đầu lòng trong một gia đình năm anh em trai và
một em gái út, Matthêu Gẫm đã thừa hưởng
nơi thân phụ, ông Phaolô Lê Văn Lại và thân mẫu, bà
Maria Nguyễn Thị Nhiệm, một truyền thống
đạo đức thâm sâu.
Năm 15
tuổi, cậu Gẫm xin phép cha mẹ gia nhập
chủng viện Lái Thiêu để tu học linh mục.
Nhưng chỉ một tháng sau, song thân đã đến xin
cậu về. Vì là anh cả một đàn em nhỏ
dại, cậu đã vâng lời cha mẹ về phụ
giúp gia đình lao động kiếm sống. Và Chúa đã
hướng dẫn cậu theo lối khác. Khoảng 20
tuổi, chàng thanh niên vạm vỡ ấy kết hôn
với một thiếu nữ thuộc họ Thành, làng Long
Điền, Bà Rịa (Nay thuộc huyện Châu Thành,
tỉnh Đồng Nai). Hai vợ chồng sống với
nhau rất êm ấm thuận hòa và sinh hạ
được bốn người con.
Trong nghề
thương mại thường phải xa nhà, một
lần kia Matthêu Gẫm sa ngã, theo đuổi mọt
thiếu nữ khác. Nhưng khi nghĩ lại, ông
cương quyết từ bỏ mối tình ngang trái.
Để bù lại, ông tỏ ra yêu vợ nhiều hơn,
và chú tâm vào việc giáo dục con cái, nhất là về
đời sống đạo đức. Trong bốn
người con thì con trưởng và con út qua đời vì
bệnh, người thứ hai ra cản việc
đốt nhà thờ Cầu Ngang nên bị giết, còn
người thứ ba bị bắt vì đạo và
chết thiêu trong khám đường cùng với nhiều
người khác tại Bà Rịa ngày 07.01.1862. Hai
người con sẵn sàng chết vì đức tin, quả
là bằng chứng rõ rệt về đường lối
giáo dục đức tin của ông.
Người
thương gia quảng đại
Vì có thuyền
riêng và rành nghề sông biển, công việc buôn bán của
ông Matthêu Gẫm càng ngày càng phát đạt. Ông quảng
đại giúp đỡ các giáo sĩ, và được các
thừa sai tín nhiệm. Trong chương trình của cha
Lợi, quản lý nhà chung Bà Rịa thì thỉnh thoảng
ông lại làm một chuyến qua Hạ Châu (Singgapour) hay
Pénang (Mã Lai) để đón các thừa sai và các chửng
sinh Việt Nam du học về nước, hoăc
chuyển các đồ thờ tự và sách báo đạo.
Một số chuyến đi về êm xuôi, nhưng rồi
công việc bại lộ, và các quan địa phương
để ý theo dõi ông rất gắt.
Năm 1846, vì nhu
cầu của giáo phận, ông nhận lời với cha
Lợi sang Singapour đón Đức cha Lefèbvre Nghĩa, cha
Duclos Lộ và ba chủng sinh về Sài Gòn. Như có linh
cảm chuyến này khó thoát, nên ông đến từ giã cha
mẹ nội ngoại, dặn dò vợ con kỹ càng
ước vọng của mình rồi lên đường.
Chuyến đi được êm xuôi. Ngày 23.05, thuyền
nhổ neo quay về thì gặp bão tố, và mất thêm
bốn ngày trốn chạy một tàu cướp biển,
nên ông trễ hẹn. Ngày 06.06, ông Gẫm mới vào
đến cửa Cần Giờ, ông trùm Huy họ Chợ
Quán đã chờ ở đó sáu ngày để chuyển
người mà không gặp, nên đã trở về nhà.
Vì biết mình là
đối tượng bị theo dõi, ông Gẫm đã
cẩn thận neo thuyền chờ thêm hai ngày, đến
khi không thấy ai ra đón, mới quyết định
đánh liều đi sâu vào Sài Gòn. Vừa thoát qua một
đồn canh, ông gặp một chiếc thuyền tuần
tiễu, ông nhanh trí hối lộ cho họ 10 nén bạc
để thoát thân. Năm người lính trên thuyền này,
sau một hồi tranh luận, sợ chuyện bị
bại lộ, nên quay thuyền lại và rượt theo
để trả tiền rồi bắt thuyền ông. Ông
Gẫm kêu gọi các anh em trên thuyền hợp lực,
định chống trả, nhưng Đức cha Nghĩa
không đồng ý, vì cho rằng trái với tinh thần nhân
hậu của Kitô giáo.
Khổ
giá và vinh quang
Sáng ngày 08.06.1846,
với sự yểm trợ của một số lính trên
thuyền khác mới tới, quan lính nhà vua áp tải
thuyền ông Gẫm về Bến Nghé. Đức cha
Nghĩa và cha Lộ bị giam ở Công Quán. Cha Lộ qua
đời trong tù ngày 17.07.1846, còn vị Giám mục thì
được giải ra kinh đô Phú Xuân. Tại đây
vua Thiệu Trị lên án xử trảm, sau đổi thành
án trục xuất về Singapour, sau ngài lại tìm cách vào
Việt Nam. Ông Matthêu Gẫm tự nhận là người
chủ mưu nên bị biệt giam ở Sài Gòn.
Vài ngày sau, các
quan đưa ông ra tòa lấy khẩu cung và kêu gọi quá
khóa. Dù bị đòn đánh đau đớn, ông Gẫm
vẫn hiên ngang chịu đựng, không khai một ai,
cũng không chịu bước qua Thánh Giá. Trước tòa,
ông khai tên là Lê Văn Bửu, còn bản án lại ghi tên Lê
Văn Bối. Sau 20 ngày, các quan làm án gửi về kinh
đô xin xử chém, nhưng nhà vua chần chừ
đến năm sau mới quyết định.
Trong thời gian
chờ vua phê án, ông Gẫm phải mang gông xiềng nặng
nề, nhưng lúc nào cũng giữ được bình
tĩnh vui vẻ. Ông nói : "Tôi có ăn trộm ăn cướp
gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì
đạo là điều tốt lắm". Cha Thán ba
lần cải trang vào thăm giải tội và trao Mình
Thánh. Cha Phan Văn Minh (tử đạo ngày 03.07.1853)
cũng vào thăm và khích lệ. Các tín hữu Chợ Quán,
Thị Nghè, An Nhơn và họ Lăng (Chí Hòa) cũng rủ
nhau đến thăm viếng người anh hùng của giáo
phận. Thân phụ ông Gẫm và người em, ông
đội Phaolô Bằng, vì liên hệ gia đình cũng
bị bắt giam tại Biên Hòa. Thân mẫu ông và các em khác
trốn tránh quanh vùng Thủ Đức cũng vào ngục
thăm ông một vài lần.
Sau bảy tháng
ông Gẫm bị giam, bản án được vua Thiệu
Trị châu phê, nhưng vì trùng vào dịp cuối năm, vua
ra lệnh dời qua tết mới thi hành. Sau tết,
một vài viên quan ở trấn Gia Định có cảm
tình với người thương gia hiền lành,
viện cớ chính vị giám mục cũng không bị
xử tử, làm đơn xin vua giảm án của ông Gẫm
thành án lưu đày chung thân. Nhưng tháng 03.1847, khi quân
đội triều đình giao tranh và thua quân Pháp ở
Đà Nẵng, nhà vua quyết định không ân xá gì
nữa.
Ngày 11.05.1847, ông
Lê Văn Gẫm được đưa đến pháp
trường "Da Còm", tên một cây đa tróc gốc
cằn cỗi ở đó (nay là xứ Chợ Đũi,
khi đó còn thuộc xứ Chợ Quán), các vị tín
hữu và lương dân hiện diện rất đông. Ba
người em của vị anh hùng đức tin, là Tôma
Trọng, Phaolô Bằng và Anrê Nguyện, cũng có mặt
trong cuộc xử anh mình. Ông đội Bằng và ông Trùm
Phước phải xô đẩy đám đông để
đưa cha Thán đến gần giải tội lần
cuối cùng cho anh mình. Ông đội cũng tặng đao
phủ ba quan tiền đề anh ta chém thật gọn,
giúp anh mình đỡ đau đớn.
Thế nhưng
nghe tiếng chiêng trống, và thấy thái độ
thương tiếc của nhiều người tham
dự, viên đao phủ không giữ được bình
tĩnh phải chém đến ba nhát, đầu vị
tử đạo đạo mới lìa khỏi cổ. Các
người em vị tử đạo và các tín hữu ùa
vào, ráp đầu vị chứng nhân với thân mình, khâu
lại, thay áo trắng, lấy khăn xanh quấn quanh
cổ ngài, rồi đặt lên võng khiêng về an táng
tại họ Chợ Quán.
Năm 1870, bà
Nhiệm, thân mẫu vị tử đạo thuật
lại ở tòa điều tra phong thánh rằng : "Hai
vợ chồng chúng tôi nghe con chết thì chẳng còn
thảm thiết gì, một vui lòng mà rằng : chết
vậy đặng làm thánh".
Ngày 27.05.1900,
Đức Lêo XIII suy tôn ông Matthêu Lê Văn Gẫm lên bậc
Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn
ngài lên bậc Hiển thánh.
6. THÁNH ANÊ LÊ
THỊ THÀNH (BÀ THÁNH ĐÊ)
(1781-1841)
Thánh
nữ tiên khởi Việt Nam
Nhìn lại
lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, số chị
em phụ nữ góp phần xương máu làm chứng
đức tin không phải là ít. Tuy nhiên tinh thần kiên
cường bất khuất vì Đức tin Kitô giáo
của thánh nữ Anê Lê thị Thành là một mẫu
gương hiếm có. Chính quan tổng đốc Trịnh
Quang Khanh nổi tiếng "hùm xám tỉnh Nam" (Nam
Định) cùng đành phải bất lực trong việc
thuyết phục bà chối đạo. Quan áp dụng
nhiều phương thế, từ khuyên dụ ngon
ngọt đến tra tấn nhục hình, gông xiềng,
đòn đánh đến tan nát thân mình, cũng không thể
lung lạc đức tin trung kiên của thánh nữ.
Những giọt máu tung toé vì đòn vọt đã trở nên
những bông hoa hồng kết thành triều thiên tử
đạo, phần thưởng tuyệt hảo Thiên Chúa
trọng thưởng : Anê Lê thị Thành, thánh nữ tiên
khởi của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
Người
mẹ gương mẫu
Anê Lê thị
Thành sinh khoảng 1781 tại làng Bái Điền, huyện
Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Ngay từ nhỏ, cô Thành
đã theo Mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc,
một giáo xứ lớn nay thuộc giáo phận Phát
Diệm, tỉnh Ninh Bình. Năm 17 tuổi cô kết hôn cùng
anh nguyễn Văn Nhất, người cùng xã, và sống
với nhau rất hạnh phúc, thuận hoà sinh hạ
được hai con trai tên Đê và Trân và bốn gái : Thu,
Năm, Nhiên, Nụ. Tục lệ địa phương
thường gọi tên cha mẹ bằng tên người
con đầu lòng, vì thế mới có tên ông Đê, bà Đê.
Hai ông bà sống hiền lành đạo đức, rất
quan tâm đến việc giáo dục con cái.
Cô Lucia Nụ,
con gái út cung khai khi giáo quyền thẩm vấn trong việc
điều tra phong thánh như sau : "Thân mẫu chúng tôi
rất chăm lo việc giáo dục chúng tôi. Chính
người dạy chúng tôi học chữ và giáo lý, sau
dạy cách tham dự thánh lễ và xưng tội
rước lễ. Người không để chúng tôi
biếng nhác việc xưng tội. Khi chúng tôi lơ là,
người thúc dục chúng tôi bằng được
mới thôi. Người cho chúng tôi nhập Hội Con
Đức Mẹ, vào Ban Thiếu Nữ Thưa Kinh ở
nhà thờ".
Một
người con khác, cô Anna Năm cũng xác minh : "Song
thân chúng tôi chỉ gả con gái cho những thanh niên
đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, thân mẫu
thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo
những điều tốt lành. Có lần người
dạy tôi : Tuân theo ý Chúa con lập gia đình là gánh rất
nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi
lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng đón nhận Thánh Giá
Chúa gởi cho. Người cũng thường khuyên
vợ chồng tôi : "Hai con hãy sống hòa hợp, an vui,
đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ".
Bà Anê Đê
thật là tấm gương sáng về đạo hạnh
cho các bà mẹ công giáo.
Từ
bác ái đến tử đạo
Ông bà Đê có
long bác ái hay thương giúp đỡ người,
nhất là trọng kính và sốt sắng giúp đỡ các
linh mục gặp khó khăn trong thời cấm
đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt
để các linh mục thừa sai trú ẩn. Chính
đức ái đó đã đưa bà Đê đến phúc
Tử Đạo.
Tháng 03.1841
đời vua Thiệu Trị, có bốn linh mục
hiện diện tại làng Phúc Nhạc. Cha Berneux Nhân ở
nhà ông tổng Phaolô Thức, cha Galy Lý ở nhà ông Trùm Cơ,
cha Thành ở nhà bà Đê và cha Ngân ở một nhà khác.
Một
người tên Đễ theo giúp cha Thành muốn lập
công và tham tiền đã mật báo tin các linh mục trú
ẩn cho quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh. Chính quan
Tổng Đốc đích thân chỉ huy 500 lính đột
xuất bao vây làng Phúc Nhạc vào đúng sáng ngày Lễ
Phục Sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân
lại để quân lính lục soát từng nhà. Hai cha Thành
và Ngân trốn thoát kịp. Cha Nhân vừa dâng lễ xong
vội rời khỏi nhà trọ, sang trốn trên gác bếp
nhà phước Mến Thánh Giá, nhưng vô tình để
gấu áo ra ngoài kẽ ván nên bị bắt trước
nhất. Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang
vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha
đường mương khô ở sau vườn
cạnh một bụi tre : "Xin cha ẩn dưới
rãnh này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì cha thoát,
bằng không cha và con đều bị bắt".
Nói xong bà cùng con
gái Lucia Nụ lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng
quân lính đã trông thấy cha chạy qua vườn nhà bà,
nên họ đến bắt cha Lý và bà Đê, chủ nhà. Ông
Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ
tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt.
Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng.
Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng,
tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi
bị bắt, bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu
bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và
không có vẻ gì là sợ sệt nữa.
Mặc
áo hoa hồng
Quân lính áp
giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải
đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê
sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải
có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành
Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra
trước công đường, quan tòa bắt bà chối
đạo bà đáp : "Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa,
không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời…"
Các quan truyền
đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau
dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi
chồng bà đến thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm
như vậy : "Họ đánh đập tôi vô cùng hung
dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi,
nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp
sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn"
Đến
lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà
Đê vẫn một long trung kiên, quân lính được
lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Giá. Nhưng bà
sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng
: "Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ
muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà
yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để
để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá"
Lần tiếp
theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả
rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn
giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà
đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn,
chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền
đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục.
Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải
có người dìu. Một nhân chứng tên Đang, về sau
cho biết : "Bà Anê Đê đã bị đánh đập
tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ.
Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khó
hơn nữa". Quả thật bà đã thể hiện
trọn vẹn mối phúc thứ tám:
"Tin yêu Chúa
Tể muôn trùng ,
Tan vàng nát
ngọc chữ trung một lòng".
Cô Lucia Nụ,
đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục
thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức
nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề
lạc quan : "Con đừng khóc nữa, mẹ mặc
áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì
Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"
Bà còn khuyên :
"Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh
chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt
sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu
nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng
bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên
Đàng"
Ngoài những
cực hình tra tấn nặng nề và ăn uống kham
khổ, bà còn chịu thêm đau đớn của bệnh
kiết lỵ. Hai nữ tu tận tâm săn sóc bà, các linh mục
gởi thuốc đến thăm, ban bí tích giải
tội, xức dầu và giúp bà. Trong giờ hấp hối
người ta thường nghe bà cầu nguyện :
"Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết vì con, con hết
long theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho
con".
Cuối cùng bà
dâng lời sau hết : "Giêsu Maria Giuse! Con xin phó linh
hồn và thân xác con trong tay Chúa, xin ban ơn cho con
được tuân theo ý Chúa trong mọi sự".
Bà Anê Đê
đã về Nhà Cha trên trời trong tinh thần thánh
thiện ấy. Hôm đó là ngày 12.07.1841, sau ba tháng bị
giam cầm hy sinh vì đức tin. Bà hưởng thọ 60
tuổi.
Theo tục
lệ, người lính cho đốt ngón chân bà để
cho biết nạn nhân không còn sống. Họ tẩm
liệm thi hài vào quan tài do Nhà Chung đem tới, rồi an
táng tại pháp trường Năm Mẫu. Sáu tháng sau, giáo
hữu cải táng về Phúc Nhạc.
Ngày 02.05.1909,
Đức Piô X đã suy tôn chân phước cho bà Anê Lê
Thị Thành. Bà thực xứng danh là gương mẫu và
là các bổn mạng các bà mẹ Công Giáo Việt Nam. Ngày
19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc
Hiển thánh.
DANH SÁCH CÁC THÁNH TỬ
ĐẠO VIỆT NAM
(XẾP THEO NGÀY THÁNG TỬ
ĐẠO)
1. Ngày 7: Thánh Giuse
Trần Văn Tuân, Giáo Dân (1825-1859)
2. Ngày 13:Thánh Đa
Minh Phạm Trọng Khảm, Chánh Án (1780-1859)
3 .Ngày 13:Thánh Luca
Phạm Trọng Thìn, Chánh Tổng, (1820-1859)
4. Ngày 13: Thánh Giuse
Phạm Trọng Tả, Chánh Tổng (1800-1859).
5. Ngày 22:Thánh Matthêu
Anphong Leziniana (Đậu) Linh
Mục (1702-1745)
6. Ngày 22:Thánh Phanxicô
Gil de Federich (Tế) Linh Mục. (1702-1745)
7. Ngày 30:Thánh Tôma Khuông
Linh mục (1780-1860)
8. Ngày 2:Thánh Gioan
Thêôphan Vénard Ven Linh Mục. (1829-1861)
9. Ngày 13:Thánh Phaolô Lê
Văn Lộc, Linh Mục. (1830-1859)
10. Ngày 11:Thánh Đa
Minh Cẩm: Linh mục ( + 1859)
11. Ngày 2:Thánh Đa
Minh Vũ Đình Tước, Linh mục ( 1775-1839)
12. Ngày 6:Thánh Phaolô Lê
Bảo Tịnh, Linh mục (1793-1857)
13. Ngày 7:Thánh Phêrô
Nguyễn Văn Lựu, Linh mục (1812-1861)
14. Ngày 27: Thánh
Laurensô Nguyễn Văn Hưởng, Linh Mục. (1802-1850)
15. Ngày 28:Thánh Phaolô
Phạm Khắc Khoan, Linh Mục (1771-1840)
16. Ngày 28:Thánh Phêrô
Nguyễn Văn Hiếu, Thầy Giảng (1783-1840)
17. Ngày 28:Thánh Gioan
Baotixita Đinh Văn Thành, Thầy Giảng (1796- 1840)
18. Ngày 30:Thánh Giuse
Tuân, Linh mục (1811-1861)
19. Ngày 1:Thánh Augustinô
Schoeffler Đông, Linh mục (1822-1851)
20. Ngày 1:Thánh Gioan
Louis Bonnard Hương, Linh Mục. (1824-1852)
21. Ngày 2:Thánh Giuse
Nguyễn Văn Lựu, Trùm Họ (1790-1854)
22. Ngày 9:Thánh Giuse
Đỗ Quang Hiển, Linh mục (1775-1840)
23. Ngày 11:Thánh Matthêu
Lê Văn Gẫm, Nhà Buôn (1813-1847)
24. Ngày 22:Thánh Laurensô
Ngôn, Giáo dân ( 1840-1862)
25. Ngày 22:Thánh Micae
Hồ Đình Hy, Quan Thái Bộc (1808-1857)
26. Ngày 25:Thánh Phêrô
Đoàn Văn Vân, Thầy Giảng (1780-1857)
27. Ngày 26:Thánh Gioan
Đoàn Thanh Hoan, Linh mục (1798-1861)
28. Ngày 26:Thánh Matthêu
Nguyễn Văn Phượng, Trùm Họ ( 1808-1861)
29. Ngày 28:Thánh Phaolô
Hạnh, Giáo dân ( 1827-1859)
30. Ngày 1:Thánh Giuse
Túc,Giáo dân (1843-1862)
31. Ngày 2:Thánh Đa
Minh Ninh, Giáo dân (1841-1862)
32. Ngày 3:Thánh Phaolô
Vũ Văn Đổng (Dương) Thủ Bạ
(1802-1862)
33. Ngày 5:Thánh Luca
Vũ Bá Loan, Linh mục (1756-1840)
34+35: Ngày 5:Thánh
Đa Minh Toại, Ngư Phủ (1812-1862)
Thánh Đa Minh Huyên,
Ngư Phủ (1817-1862)
36+37: Ngày 6:Thánh Phêrô Đinh Văn
Dũng,Giáo dân (1800-1862)
Thánh Phêrô Đinh
Văn Thuần,Giáo dân (1802-1862)
38. Ngày 6:Thánh Vinh
Sơn Dương, Thu Thuế (1821-1862)
39.Ngày 12:Thánh Augustinô
Phan Viết Huy, Quân nhân (1795-1939)
40. Ngày 12:Thánh Nicolao
Bùi Đức Thể, Quân nhân (1792-1839)
41. Ngày 12:Thánh Đa
Minh Đinh Đạt, Quân nhân (1803-1839)
Thánh Đa Minh Nguyên,
Chánh Trương (1800-1862)
Thánh Đa Minh Nhi,
Nông dân (1822-1962)
Thánh Đa Minh
Nguyễn Đức Mạo, Nông gia (1818-1862)
Thánh Vinh Sơn
Tưởng, Chánh Tổng (1814-1862)
Thánh Anrê
Tường, Nông gia (1812-1862)
47. Ngày 17: Thánh Phêrô
Đa, Thợ Mộc (1802-1862)
48.Ngày 26:Thánh Phanxicô
Đỗ Văn Chiểu, Thầy Giảng (1797-1838)
49. Ngày 26:Thánh Đa
Minh Henares Minh, Giám mục (1765-1838)
50.Ngày 27:Thánh Tôma
Toán, Thầy Giảng (1764-1840)
51. Ngày 30:Thánh Vinh
Sơn Đỗ Yến, Linh mục (1764-1838)
52. Ngày 3:Thánh Philipphê Phan Văn Minh ,Linh mục (1815-1853)
53. Ngày 4:Thánh Giuse Nguyễn
Đình Uyển,Thầy
Giảng (1773-1838)
54. Ngày 10:Thánh Phêrô
Nguyễn Khắc Tự,Thầy Giảng (1808-1840)
55. Ngày 10:Thánh
Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh (tự Năm Quỳnh)Trùm Chánh (1768-1840)
56. Ngày 12:Thánh Ingatiô
Delgado Y,Giám mục ( 1762-1838)
57. Ngày 12:Thánh Anê Lê
Thị Thành, (Anê Đê), Giáo Dân (1781-1841)
58. Ngày 12:Thánh Phêrô
Khanh, Linh mục (1780-1842)
59. Ngày 15:Thánh Phêrô
Nguyễn Bá Tuần, Linh mục (1766-1838)
60.Ngày 15:Thánh Anrê
Nguyễn Kim Thông,(Năm Thông) Trùm Chánh (1790-1855)
61. Ngày 20:Thánh Giuse
Diaz Sanjurjo An, Giám mục (1818-1857)
62. Ngày 24:Thánh Giuse
Ferandez Hiền,Linh muc (1775-1838)
(118. Ngày
26: Chân Phước Anrê Phú Yên,
Thầy giảng (1625-1644)
63. Ngày 28:Thánh Giuse
Melchior Garcia Sampedro Xuyên,Giám mục (1821-1858)
64. Ngày 31:Thánh Phêrô
Đoàn Công Quí,Linh mục (1826-1859)
65. Ngày 31:Thánh Emmanuel
Lê Văn Phụng,Trùm Chánh (1796-1859)
66. Ngày 1:Thánh Bernadô
Võ Văn Duệ,Linh mục (1755-1838)
67. Ngày 1:Thánh Đa
Minh Nguyễn Văn Hạnh,Linh mục (1772-1838)
68. Ngày 12:Thánh Giacôbê Đỗ
Mai Năm,Linh mục (1781-1838)
69.Ngày 12:Thánh Antôn
Nguyễn Đích,Trùm Chánh (1769-1838)
70. Ngày 12:Thánh Micae
Nguyễn Huy Mỹ,Lý Trưởng (1804-1838)
71. Ngày 21:Thánh Giuse
Đặng Đình Viên,Linh mục (1787-1838)
72. Ngày 5:Thánh
Phêrô Nguyễn Văn Tự,Linh mục ( 1796-1838)
73. Ngày 5:Thánh Giuse Hoàng
Lương Cảnh,Trùm Họ và Lang Y (1763-1838)
74. Ngày 17:Thánh Emmanuel
Nguyễn Văn Triệu,Linh mục (1756-11798)
75. Ngày 18:Thánh Đa
Minh Trạch,Linh mục (1772-1840)
76. Ngày 20:Thánh Gioan
Carôlô Cornay Tân,Linh mục Thừa Sai Paris (1809-1837)
77. Ngày 21:Thánh Phanxicô
Jaccard Phan,Linh mục Thừa Sai Paris (1799-1838)
78. Ngày 21:Thánh Tôma
Trần Văn Thiện,Chủng Sinh (1820-1838)
79. Ngày 6:Thánh Phanxicô
Trần Văn Trung,Cai Đội (1825-1838)
80. Ngày 11:Thánh Phêrô Lê Tùy,Linh mục (1773-1833)
81. Ngày 17:Thánh Phanxicô Isidôrô
Gagelin Kính,Linh mục
(1799-1833)
82. Ngày 23:Thánh Phaolô
Tống Viết Bường,Quan Thị Vệ (1773-1833)
83. Ngày 24:Thánh Giuse Lê
Đăng Thi,Cai Đội (1825-1860)
84. Ngày 28:Thánh Gioan Đạt,Linh mục
(1765-1798)
85. Ngày 1:Thánh Hiêrônimô Hermosilla Liêm (Vọng),Giám mục (1800-1861)
86. Ngày 1:Thánh Valentinô Berrio Ochoa
Vinh,Giám Mục (1827-1861)
87. Ngày 1:Thánh Phêrô
Almatô Bình,Linh mục (1831-18610)
88. Ngày 3:Thánh Phêrô
Phanxicô Nêron Bắc,Linh mục (19818-1860)
89. Ngày 5:Thánh Đa
Minh Mầu,Linh Mục (1794-1858)
90. Ngày 7:Thánh Vinh
Sơn Lê Quang Liêm,Linh mục (1732-1113)
91. Ngày 7:Thánh Jacinta
Castaneda Gia,Linh mục (1743-1773)
92. Ngày 8:Thánh Giuse
Nguyễn Đình Nghi,Linh mục (1793-1840)
93. Ngày 8:Thánh Phaolô
Nguyễn Ngân,Linh mục (1790-1840)
94. Ngày 8:Thánh Martinô
Tạ Đức Thịnh,Linh mục (1760-1840)
95. Ngày 8:Thánh
Gioan Baotixita Cỏn (Bốn),Lý Trưởng (1805-1840)
96. Ngày 8:Thánh Martinô
Thọ (Nho),Viên chức Thu Thuế (1787-1840)
97. Ngày 14:Thánh Stêphanô Thêôdôrê Cuénot
Thể,Giám mục (1802-1861)
98. Ngày 20:Thánh Phanxicô
Xavier Nguyễn Cần,Thầy Giáng (1803-1837)
99. Ngày 24:Thánh Phêrô
Dumoulin Borie Cao,Giám Mục (1808-1838)
100. Ngày 24:Thánh Vinh
Sơn Nguyễn Thế Điểm,Linh Mục (1761-1838)
101. Ngày 24:Thánh Phêrô
Vũ Đăng Khoa,Linh mục (1790-1838)
102. Ngày 26:Thánh Tôma
Đinh Viết Dụ,Linh mục (1783-1839)
103. Ngày 26:Thánh Đa Minh
Nguyễn Văn Xuyên,Linh
mục (1780-1839)
104. Ngày 28:Thánh Anrê
Trần Văn Trông,Quân Nhân (1814-1835)
105. Ngày 30:Thánh Giuse
Marchand Du,Linh mục Thừa Sai (1803-1835).
106. Ngày 6:Thánh Giuse
Nguyễn Duy Khang,Thầy Giảng (1832-1861)
107. Ngày 10:Thánh Simon
Phan Đắc Hòa,Y Sĩ (1774-1840)
108. Ngày 18:Thánh Phaolô
Nguyễn Văn Mỹ,Thầy Giảng (1798-1838)
109. Ngày 18:Thầy
Phêrô Trương Văn Đường,Thầy Giảng
(1808-1838)
110. Ngày 18:Thánh Phêrô
Vũ Văn Truật,Thầy Giảng (1817-1838)
111. Ngày 19:Thánh Phanxicô Xavier Hà
Trọng Mậu,Thầy
Giảng (1790-1839)
112. Ngày 19:Thánh Đa
Minh Bùi Văn Úy,Thầy Giảng (1812-1839)
113. Ngày 19:Thánh
Augustinô Nguyển Văn Mới,Nông Dân (1806-1939)
114. Ngày 19:Thánh
Tôma Nguyễn Văn Đệ,Thợ May (1811-1839)
115. Ngày 19:Thánh Stêphanô Nguyễn
Văn Vinh,Tá Điền
(1813-1839)
116. Ngày 21:Thánh Phêrô Trương
Văn Thi,Linh mục (1763-1839)
117. Ngày 21:Thánh Anrê
Trần An Dũng Lạc,Linh mục (1795-1839)
SƠ
LƯỢC TIỂU SỬ
CÁC
THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
(theo nguồn http://catholic.org.tw)
1. Anrê Trần An
Dũng Lạc, Sinh năm 1795 tại Bắc
Ninh, Linh mục, bị xử trảm ngày 21/12/1839 tại Ô
Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 21/12.
2. Anrê
Nguyễn Kim Thông (Năm Thuông), Sinh năm 1790
tại Gò Thị, Bình Ðịnh, Thầy giảng, chết
rũ tù ngày 15/07/1855 tại Mỹ Tho dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày
15/07.
3. Anrê
Trần Văn Trông, Sinh năm 1808 tại Kim
Long, Huế, Binh Sĩ, bị xử trảm ngày 28/11/1835
tại An Hòa dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 28/11.
4. Anrê Tường, Sinh
tại Ngọc Cục, Xuân Trường, Giáo dân, bị
xử trảm ngày 16/06/1862 tại làng Cốc dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày
16/06.
5. Antôn Nguyễn Ðích, Sinh
tại Chi Long, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm ngày
12/08/1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua
Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày
27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 12/08.
6. Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh
(Năm), Sinh năm 1768 tại Mỹ Hương, Quảng Bình, Y
sĩ, bị xử giảo ngày 10/07/1840 tại Ðồng
Hới dưới đời vua Minh Mạng,
đước phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 10/07.
7. Augustinô Schoeffler (Ðông), Sinh
năm 1822 tại Mittelbonn, Nancy, Pháp, Linh Mục Thừa sai
người Pháp, Hội Thừa Sai Paris, bị xử
trảm ngày 1/05/1851 tại Sơn Tây dưới đời
vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày
27/05/1900 do Lêô XIII, lễ kính vào ngày 1/05.
8. Augustinô Phan Viết Huy, Sinh
năm 1795 tại Hạ Linh, Bùi Chu, Binh Sĩ, Giáo dân dòng ba,
bị xử lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 12/06.
9. Augustinô Nguyễn Văn Mới, Sinh
năm 1806 tại Phù Trang, Nam Ðịnh, Giáo dân, dòng ba Ða Minh,
bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cổ Mê
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 19/12.
10. Bênađô Vũ Văn Duệ, Sinh
năm 1755 tại Quần Anh, Nam Ðịnh, Linh mục
triều, bị xử trảm ngày 1/08/1838 tại Ba Tòa
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 1/08.
11. Ða-Minh Cẩm, Sinh
tại Cẩm Chương, Bắc Ninh, Linh mục, Dòng Ða
Minh, bị xử trảm ngày 11/03/1859 tại Hưng Yên
dưới thời vua Tự Ðức, được phong
Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào
ngày 11/03.
12. Ða-Minh Ðinh Ðạt, Sinh
năm 1803 tại Phú Nhai, Bùi Chu, Binh Sĩ, Giáo dân dòng ba,
bị xử giảo ngày 18/07/1839 tại Nam Ðịnh
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 18/07.
13. Ða-Minh Nguyễn Văn Hạnh
(Diệu), Sinh năm 1772 tại Năng A, Nghệ An, Linh mục dòng Ða
Minh, bị xử trảm ngày 1/08/1838 tại Ba Tòa
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 1/08.
14. Ða-Minh Huyện, Sinh
tại Ðông Thành, Thái Bìnb, Giáo dân, bị thiêu sống ngày
5/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự
Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do
Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 5/06.
15. Ða-Minh Phạm Viết Khảm
(Án Trọng), Sinh tại Quần Cống, Nam Ðịnh,
Quan Án, Giáo dân Dòng Ba Ða Minh, bị xử giảo ngày 13/01/1859
tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức,
được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức
Piô XII, lễ kính vào ngày 13/01.
16. Ða-Minh Nguyễn Ðức Mạo, Sinh
tại Phú Yên, Ngọc Cực, Giáo dân, bị xử trảm
ngày 16/06/1862 tại Làng Cốc dưới đời vua
Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày
29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.
17. Ða-Minh Hà Trọng Mầu, Sinh
tại Phú Nhai, Bùi Chu, Linh mục Dòng Ða Minh, bị xử
trảm ngày 5/11/1858 tại Hưng Yên dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước
ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 5/11.
18. Ða-Minh Nguyên, Sinh tại
Ngọc Cục, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm
ngày 16/06/1862 tại Làng Cốc dưới đời vua
Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày
29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.
19. Ða-Minh Nhi, Sinh tại
Ngọc Cục, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm
ngày 16/06/1862 tại Làng Cốc dưới đời vua
Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày
29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.
20. Ða-Minh Ninh, Sinh năm 1835
tại Trung Linh, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm
ngày 2/06/1862 tại An Triêm dưới đời vua Tự
Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do
Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 2/06.
21. Ða-Minh Toái, Sinh tại Ðông
Thành, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 5/06/1862 tại
Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức,
được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức
Piô XII, lễ kính vào ngày 5/06.
22. Ða-Minh Trạch (Ðoài), Sinh
năm 1792 tại Ngoại Bồi, Nam Ðịnh, Linh mục
dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 18/09/1840 tại Bẩy
Mẫu dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 18/09.
23. Ða-Minh Vũ Ðình Tước, Sinh
năm 1775 tại Trung Lao, Bùi Chu, Linh mục dòng Ða Minh,
bị tra tấn đến chết ngày 2/04/1839 tại Nam
Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 2/04.
24. Ða-Minh Bùi Văn Úy, Sinh
năm 1801 tai Tiên Môn, Thái Bình, Thầy giảng dòng ba Ða Minh,
bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cổ Mê
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 19/12.
25. Ða-Minh Nguyễn Văn Xuyên
(Ðoàn), Sinh năm 1786 tại Hưng Lập, Nam Ðịnh, Linh
mục dòng Ða Minh. , bị xử trảm ngày 26/11/1839
tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh
Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do
Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 26/11.
26. Ðức Cha Ða-Minh Xuân (Dominicus
Henarès), Sinh năm 1765 tại Baena, Cordova, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám
mục thừa sai người Tây Ban Nha, phụ tá
địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày
25/06/1838 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh
Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do
Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngàỵ 25/06.
27. Ðức Cha Giêrônimô Liêm (Hieronymus
Hermosilla), Sinh năm 1800 tại S. Domingo de la Calzadar, Tây Ban Nha, dòng Ða
Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha,
địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày
1/11/1861 tại Hải Dương dưới thời vua
Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày
15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 1/11.
28. Ðức Cha Giuse An (Maria Diaz
Sanjurjo), Sinh năm 1818 tại Santa Eulalia de Suegos, Tây Ban Nha, dòng Ða
Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, bị
xử trảm ngày 20/07/1857 tại Nam Ðịnh dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 29/04/1900 do Ðức Piô XII, lễ kính ngày
20/07.
29. Ðức Cha Clêmentê Inhaxiô Hy
(Ignatius delgado), Sinh năm 1761 tại Villa Felice, Tây Ban Nha,
dòng Ða Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha,
địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị chết rũ tù ngày
12/07/1838 (21/6/1838 (âm lịch) tại Nam Ðịnh dưới
đời vua Minh Mạng, được phong Chân
Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày
12/07.
30. Ðức Cha Melchor Xuyên (Garcia
Sampedro), Sinh năm 18211 tại Cortes Asturias, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám
mục thừa sai người Tây Ban Nha, bị xử
lăng trì ngày 28/07/1858 tại Nam Ðịnh dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 29/04/1951, do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày
28/07.
31. Ðức Cha Phêrô Cao (Pierre Rose
Dumoulin Borie), Sinh năm 1808 tại Beynat, Tulle, Pháp, Giám
mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận Tây Ðàng
Ngoài, bị xử trảm ngày 24/11/1838 tại Ðồng
Hới dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/11.
32. Ðức Cha Thể (Etienne Théodore
Cuénot), Sinh năm 1802 tại Belieu, Besancon, Pháp, Giám mục Hội
Thừa Sai Paris, địa phận Ðông Ðàng Trong, chết
rũ tù ngày 14/11/1861 tại Bình Ðịnh dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kínhvào ngày
14/11.
33. Ðức Cha Vinh (Berrio Ochoa), Sinh
năm 1827 tại Elorrio (Vizcaya), Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám
mục thừa sai người Tây Ban Nha, địa
phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/11/1861
tại Hải Dương dưới đời vua Tự
Ðức, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do
Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 1/11.
34. Emmanuel Lê Văn Phụng, Sinh
năm 1796 tại Ðầu Nước, Cù Lao Giêng, Giáo dân, Trùm
Họ, bị xử trảm ngày 31/07/1859 tại Châu Ðốc
dưới đời vua Tự Ðức, được
phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính
vào ngày 31/07.
35. Emmanuel Nguyễn Văn
Triệu,
Sinh năm 1756 tại Thợ Ðức, Phú Xuân, Huế, Linh
mục, bị xử trảm ngày 17/09/1798 tại Bãi Dâu
dưới đời vua Cảnh Thịnh, được
phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ
kính vào ngày 17/09.
36. Giacôbê Ðỗ Mai Năm, Sinh
năm 1781 tại Ðông Biên, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử
trảm ngày 12/08/1838 tại Bẩy Mẫu dưới
đời vua Minh Mạng, được phong Chân
Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày
12/08.
37. Gioan Baotixita Cỏn, Sinh
năm 1805 tại Kẻ Bàng, Nam Ðịnh, Giáo dân, Lý
Trưởng, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại
Bẩy Mẫu dướiđời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 8/11.
38. Gioan Baotixita Ðinh Văn Thành, Sinh
năm 1796 tại Nộn Khê, Ninh Bình, Thầy giảng,
bị xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 28/04.
39. Gioan Ðạt, Sinh năm 1765
tại Ðồng Chuối, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử
trảm ngày 28/10/1798 tại Chợ Rạ dưới
đời vua Cảnh Thịnh, được phong Chân
Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày
28/10.
40. Gioan Ðoàn Trịnh Hoan, Sinh
năm 1798 tại Kim Long, Thừa Thiên, Linh mục, bị
xử trảm ngày 26/05/1861 tại Ðồng Hới
dưới đời vua Tự Ðức, được
phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính
vào ngày 26/05.
41. Gioan Hương (Jean Louis
Bonnard),
Sinh năm 1824 tại Saint Christo en Jarez, Pháp, Linh Mục
Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài,
bị xử trảm ngày 1/05/1852 tại Nam Ðịnh
dưới đời vua Tự Ðức, được
phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ
kính vào ngày 1/05.
42. Gioan Tân (Jean Charles Cornay), Sinh
năm 1809 tại Loudun, Poitiers, Pháp, Linh Mục Hội
Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị
xử lăng trì ngày 20/09/1837 tại Sơn Tây dưới
đời vua Minh Mạng, được phong Chân
Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày
20/05.
43. Gioan Ven (Jean Théophane Vénard), Sinh
năm 1829 tại St. Loup-sur-Thouet, Poitiersm, Pháp, Linh Mục
Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài,
bị xử trảm ngày 2/02/1861 tại Ô Cầu Giấy
dưới đời vua Tự Ðức, được phong
Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào
ngày 2/02.
44. Giuse Hoàng Lương Cảnh, Sinh
năm 1763 tại Làng Ván, Bắc Giang, Giáo dân dòng ba Ða Minh,
Trùm Họ, Y Sĩ, xử trảm ngày 5/09/1838 tại
Bắc Ninh dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 5/09.
45. Giuse Du (Joseph Marchand), Sinh
năm 1803 tại Passavaut, Besancon, Pháp, Linh Mục Hội
Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Ngoài, bị xử
hình bá đao ngày 30/11/1835 tại Thợ Ðúc dưới
đời vua Minh Mạng, được phong Chân
Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày
30/11.
46. Giuse Ðỗ Quang Hiển, Sinh
năm 1775 tại Quần Anh, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða
Minh, bị xử trảm ngày 9/05/1840 tại Nam Ðịnh
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 9/05.
47. Giuse Hiền (Joseph Fernandez), Sinh
năm 1775 tại Ventosa de la Cueva, Tây Ban Nha, Linh Mục dòng
Ða Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận
Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 24/07/1838 tại Nam
Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được
phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ
kính vào ngày 24/07.
48. Giuse Nguyễn Duy Khang, Sinh
năm 1832 tại Trà Vi, Nam Ðịnh, Thầy giảng dòng ba
Ða Minh, bị xử trảm ngày 6/12/1861 tại Hải
Dương dưới đời vua Thiệu Trị,
được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức
Piô X, lễ kính vào ngày 6/12.
49. Giuse Nguyễn Văn Lựu, Sinh
năm 1790 tại Cái Nhum, Vĩnh Long,Trùm họ, chết
rũ tù ngày 2/05/1854 tại Vĩnh Long dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày
2/05.
50. Giuse Nguyễn Ðình Nghi, Sinh
năm 1771 tại Kẻ Với, Hà Nội, Linh mục,
bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 8/11.
51. Giuse Phạm Trọng Tả
(Cai), Sinh năm 1796 tại Quần Cống, Nam Ðịnh, Giáo dân,
Cai Tổng, bị xử giảo ngày 13/01/1859 tại Nam
Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1951 do Ðức
Piô XII, lễ kính vào ngày 13/01.
52. Giuse Lê Ðăng Thị, Sinh
năm 1825 tại Kẻ Văn, Quảng Trị, Giáo dân, Cai
Ðội, bị xử giảo ngày 24/10/1860 tại An Hòa
dưới đời vua Tự Ðức, được
phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính
vào ngày 24/10.
53. Giuse Tuân, Sinh năm 1821
tại Trần Xá, Hưng Yên, Linh mục dòng Ða Minh, bị
xử trảm ngày 30/04/1861 tại Hưng Yên dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước
ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 30/04.
54. Giuse Trần Văn Tuấn, Sinh
năm 1825 tại Nam Ðiền, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị
xử trảm ngày 7/01/1862 tại Nam Ðịnh dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày
7/01.
55. Giuse Túc, Sinh năm 1852
tại Hoàng Xá, Bắc Ninh, Giáo dân, bị xử trảm ngày
1/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự
Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/1951 do
Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 1/06.
56. Giuse Nguyễn Ðình Uyển, Sinh
năm 1775 tại Ninh Cường, Nam Ðịnh, Thầy
giảng, dòng ba Ða Minh, chết rũ tù ngày 4/7/1838 tại
Hưng Yên dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 4/07.
57. Giuse Ðặng Ðình Viên, Sinh
năm 1787 tại Tiên Chu, Hưng Yên, Linh mục triều,
bị xử trảm ngày 21/8/1838 tại Bẩy Mẫu
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 21/08.
58. Henricô Gia (Henricus Castaneda), Sinh
năm 1743 tại Javita, Tây Ban Nha, Linh Mục dòng Ða Minh,
thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông
Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 7/11/1773 tại Ðồng
Mơ dưới đời Chúa Trịnh Sâm,
được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức
Piô X, lễ kính vào ngày 7/11.
59. Inê Lê Thị Thành (Ðệ), Sinh
năm 1781 tại Bái Ðền, Thanh Hóa, Giáo dân, chết rũ
tù ngày 12/07/1841 tại Nam Ðịnh dưới đời vua
Thiệu Trị, được phong Chân Phước ngày
11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 12/07.
60. Lôrensô Nguyễn Văn
Hưởng, Sinh năm 1802 tại Kẻ Sài, Hà
Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 13/02/1856
tại Ninh Bình dưới đời vua Tự Ðức,
được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức
Piô X, lễ kính vào ngày 13/02.
61. Lôrensô Ngôn, Sinh tại
Lục Thủy, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm
ngày 22/05/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua
Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày
29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 22/05.
62. Luca Vũ Bá Loan, Sinh
năm 1756 tại Trại Bút, Phú Ða, Linh mục, bị
xử trảm ngày 5/06/1840 Ô Cầu Giấy dưới
đời vua Minh Mạng, được phong Chân
Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày
5/06.
63. Luca Phạm Viết Thìn (Cai), Sinh
năm 1819 tại Quần Cống, Nam Ðịnh, Giáo dân, Cai
Tổng, bị xử giảo ngày 13/01/1859 tại Nam
Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức,
được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức
Piô XII, lễ kính vào ngày 13/01.
64. Matthêu
Nguyễn Văn Phượng (Ðắc), Sinh
năm 1808 tại Kẻ Lái, Quảng Bình, Trùm họ, bị
xử trảm ngày 26/05/1861 tại Ðồng Hới
dưới đời vua Tự Ðức, được
phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính
vào ngày 26/05.
65. Matthêu Ðậu (Matthaeus Alonso
Leciniana),
Sinh năm 1702 tại Nava del Rey, Tây Ban Nha, Linh Mục dòng Ða
Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận
Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 22/01/1745 tại
Thăng Long dưới đời chúa trịnh Doanh,
được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức
Piô X, lễ kính vào ngày 22/01.
66. Matthêu Lê Văn Gẫm, Sinh
năm 1813 tai Gò Công, Biên Hòa, Giáo dân, Thương gia, bị
xử trảm ngày 11/05/1847 tại Chợ Ðũi
dưới đời vua Thiệu Trị, được
phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ
kính vào ngày 11/05.
67. Martinô Tạ Ðức Thịnh, Sinh
năm 1760 tại Kẻ Sặt, Hà Nội, Linh mục,
bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 8/11.
68. Martinô Thọ, Sinh
năm 1787 tại Kẻ Bàng, Nam Ðịnh, Giáo dân, Trùm họ,
bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 8/11.
69. Micae Hồ Ðình Hy, Sinh
năm 1808 tại Như Lâm, Thừa Thiên, Giáo dân, Quan Thái
Bộc, bị xử trảm ngày 22/05/1857 tại An Hòa
dưới đời vua Tự Ðức, được
phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính
vào ngày 22/05.
70. Micae Nguyễn Huy Mỹ, Sinh
năm 1804 tại Kẻ Vĩnh, Hà Nội, Giáo dân, Lý
Trưởng, bị xử trảm ngày 12/08/1838 tại
Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do
ÐứcLêô XIII, lễ kính vào ngày 12/08.
71. Nicôla Bùi Ðức Thể, Sinh
năm 1792 tại Kiên Trung, Bùi Chu, Giáo dân, Binh sĩ, bị
lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên dưới
đời vua Minh Mạng, được phong Chân
Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Leô XIII, lễ kính vào ngày
12/06.
72. Phanxicô Ðỗ Văn Chiểu, Sinh
năm 1797 tại Trung Lễ, Liên Thủy, Nam Ðịnh,
Thầy giảng, bị xử trảm ngày 25/06/1838 tại
Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 25/06.
73. Phanxicô Kính (Francois Isidore Gagelin), Sinh
năm 1799 tại Montperreux, Besancon, Pháp, Linh mục Thừa
sai Paris, địa phận Ðàng Trong, bị xử giảo
ngày 17/10/1833 tại Bãi Dâu dưới đời vua Minh
Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do
Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 17/10.
74. Phanxicô Phan (Francois Jaccard), Sinh
năm 1799 tại Onnion, Annecy, Pháp, Linh mục Hội
Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Trong, bị xử
giảo ngày 21/09/1838 tại Nhan Biều dưới
đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước
ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 21/09.
75. Phanxicô Tế (Francois Gil de
Federich),
Sinh năm 1702 tại Tortosa, Catalunha, Tây Ban Nha, Linh mục
dòng Ða Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa
phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 22/01/1745
tại Thăng Long dưới đời chúa Trịnh
Doanh, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do
Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 22/01.
76. Phanxicô Trần Văn Trung, Sinh
năm 1825 tại Phan Xã, Quảng Trị, Giáo dân, Cai
đội, bị xử trảm ngày 6/10/1858 tại An Hòa
dưới đời vua Tự Ðức, được
phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính
vào ngày 6/10.
77. Phanxicô Xaviê Cần, Sinh
năm 1803 tại Sơn Miêng, Hà Ðông, Thầy giảng,
bị xử giảo ngày 20/11/1837 tại Ô Cầu Giấy
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 20/11.
78. Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu, Sinh
năm 1794 tại Kẻ Ðiều, Thầy giảng, dòng ba Ða
Minh, bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cô Mê
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 19/12.
79. Phaolô Tống Viết
Bường, Sinh tại Phủ Cam, Huế, Giáo dân, Quan
Thị Vệ, bị xử trảm ngày 23/10/1833 tại
Thợ Ðức dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 23/10.
80. Phaolô Dương (Ðổng), Sinh
năm 1792 tại Vực Ðường, Hưng Yên, Giáo dân,
Trùm họ, bị xử trảm ngày 3/06/1862 tại Nam
Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức,
được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức
Piô XII, lễ kính vào ngày 3/06.
81. Phaolô Hạnh, Sinh
năm 1826 tại Chợ Quán, Giáo dân, bị xử trảm
ngày 28/05/1859 tại Nam Việt dưới đời vua
Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày
11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 28/05.
82. Phaolô Phạm Khắc Khoan, Sinh
năm 1771 tại Duyên Mậu, Ninh Bình, Linh mục, bị
xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình dưới
đời vua Minh Mạng, được phong Chân
Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày
28/04.
83. Phaolô Lê Văn Lộc, Sinh
năm 1830 tại An Nhơn, Gia Ðịnh, Linh mục, bị
xử trảm ngày 13/02/1859 tại Gia Ðịnh dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày
13/02.
84. Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Sinh
năm 1798 tại Kẻ Non, Hà Nam, Thầy giảng, bị
xử giảo ngày 18/12/1838 tại Sơn Tây dưới
đời vua Minh Mạng, được phong Chân
Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày
18/12.
85. Phaolô Nguyễn Ngân, Sinh
năm 1771 tại Kẻ Bền, Thanh Hóa, Linh mục, bị
xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 8/11.
86. Phaolô Lê Bảo Tịnh, Sinh
năm 1793 tại Trịnh Hà, Thanh Hóa, Linh mục, bị
xử trảm ngày 6/04/1857 tại Bẩy Mẫu
dưới đời vua Tự Ðức, được
phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính
vào ngày 6/04.
87. Phêrô Bắc (Pierre Francois Neron), Sinh
năm 1818 tại Bornay, Saint-Claude, Pháp, Linh mục Hội
Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị
xử trảm ngày 3/11/1860 tại Sơn Tây dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước
ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính av2o ngày 3/11.
88. Phêrô Bình (Petrus Almato), Sinh
năm 1830 tại San Feliz Saserra, Tây Ban Nha, Linh mục dòng Ða
Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận
Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/11/1861 tại
Hải Dương dưới đời vua Tự
Ðức, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do
Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 1/11.
89. Phêrô Dũng, Sinh tại Ðông
Hào, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 6/06/1862 tại
Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức,
được phong Chân Phước nag2y 29/04/1951 do Ðức
Piô XII, lễ kính vào ngày 6/06.
90. Phêrô Ða, Sinh tại
Ngọc Cục, Xuân Trường, Giáo dân, bị thiêu
sống ngày 17/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày
17/06.
91. Phêrô Nguyễn Văn
Ðường, Sinh năm 1808 tại Kẻ Sở, Hà Nam,
Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18/12/1838 tại
Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 18/12.
92. Phêrô Nguyễn Văn Hiếu, Sinh
năm 1783 tại Ðồng Chuối, Ninh Bình, Thầy
giảng, bị xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 28/04.
93. Phêrô Phạm Khanh, Sinh
năm 1780 tại Hòa Duệ, Nghệ An, Linh mục, bị
xử trảm ngày 12/07/1842 tại Hà Tĩnh dưới
đời vua Thiệu Trị, được phong Chân
Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày
12/07.
94. Phêrô Võ Ðăng Khoa, Sinh
năm 1790 tại Thượng Hải, Nghệ An, Linh
mục, bị xử giảo ngày 24/11/1838 tại Ðồng
Hới dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/11.
95. Phêrô Nguyễn Văn Lựu, Sinh
năm 1812 tại Gò Vấp, Gia Ðịnh, Linh mục, bị
xử trảm ngày 7/04/1861 tại Mỹ Tho dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày
7/04.
96. Phêrô Ðoàn Công Quý, Sinh
năm 1826 tại Búng, Gia Ðịnh, Linh mục, bị xử
trảm ngày 31/07/1859 tại Châu Ðốc dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 11/04/1909, lễ kính vào ngày 31/07.
97. Phêrô Thuần, Sinh
tại Ðông Phú, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày
6/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự
Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do
Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 6/06.
98. Phêrô Phạm Văn Thi, Sinh
năm 1763 tại Kẻ Sở, Hà Nội, Linh mục,
bị xử trảm ngày 21/12/1839 tại Ô Cầu Giấy
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 21/12.
99. Phêrô Vũ Văn Truật, Sinh
năm 1816 tại Kẻ Thiếc, Hà Nam, Thầy giảng,
bị xử giảo ngày 18/12/1838 tại Sơn Tây
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 18/12.
100. Phêrô Nguyễn Bá Tuần, Sinh
năm 1766 tại Ngọc Ðồng, Hưng Yên, Linh mục
triều, bị chết rũ tù ngày 15/07/1838 tại Nam
Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 15/07.
101. Phêrô Lê Tùy, Sinh năm 1773
tại Bằng Sở, Hà Ðông, Linh mục, bị xử
trảm ngày 11/10/1833 tại Quan Ban dưới đời
vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày
27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 11/10.
102. Phêrô Nguyễn Khắc Tự, Sinh
năm 1811 tại tại Ninh Bình, Thầy giảng, bị
xử giảo ngày 10/07/1840 tại Ðồng Hới
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 10/07.
103. Phêrô Nguyễn Văn Tự, Sinh
năm 1796 tại Ninh Cường, Bùi Chu, Linh mục dòng Ða
Minh, bị xử trảm ngày 5/09/1838 tại Bắc Ninh
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 5/09.
104. Phêrô Ðoàn Văn Vân, Sinh
năm 1780 tại Kẻ Bói, Hà Nam, Thầy giảng, bị
xử trảm ngày 25/05/1857 tại Sơn Tây dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày
25/05.
105. Philipphê Phan Văn Minh, Sinh
năm 1815 tại Cái Mơn, Vĩnh Long, Linh mục, bị
xử trảm ngày 3/07/1853 tại Ðình Khao dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày
3/07.
106. Simon Phan Ðắc Hòa, Sinh
năm 1787 tại Mai Vĩnh, Thừa Thiên, Giáo dân, Y Sĩ,
bị xử trảm ngày 12/12/1840 tại An Hòa dưới
đời vua Minh Mạng, được phong Chân
Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày
12/12.
107. Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, Sinh
năm 1814 tại Phù Trang, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða Minh,
bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cổ Mê
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 25/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 19/12.
108. Tôma Ðinh Viết Dụ, Sinh
năm 1783 tại Phú Nhai, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða Minh,
bị xử trảm ngày 26/11/1839 tại Bẩy Mẫu
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 26/11.
109. Tôma Nguyễn Văn Ðệ, Sinh
năm 1810 tại Bồ Trang, Nam Ðịnh, Giáo dân dòng ba Ða
Minh, bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cổ Mê
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 19/12.
110. Tôma Khuông, Sinh năm 1780
tại Nam Hào, Hưng Yên, Linh mục dòng Ða Minh, bị
xử trảm ngày 30/01/1860 tại Hưng Yên dưới
đời vua Tự Ðức, được phong Chân
Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày
30/01.
111. Tôma Trần Văn Thiện, Sinh
năm 1820 tại Trung Quán, Quảng Bình, Chủng sinh,
bị xử giảo ngày 21/09/1838 tại Nhan Biều
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 21/09.
112. Tôma Toán, Sinh năm 1767
tại Cần Phan, Nam Ðịnh, Thầy giảng, dòng ba Ða
Minh, bị chết rũ tù ngày 27/07/1840 tại Nam Ðịnh
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 27/06.
113. Vincentê Dương, Sinh
tại Doãn Trung, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày
6/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự
Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do
Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 6/06.
114. Vincentê Nguyễn Thế
Ðiểm,
Sinh năm 1761 tại Ân Ðô, Quảng Trị, Linh mục,
bị xử giảo ngày 24/11/1838 tại Ðồng Hới
dưới đời vua Minh Mạng, được phong
Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào
ngày 24/11.
115. Vincentê Lê Quang Liêm, Sinh
năm 1732 tại Trà Lũ, Bùi Chu, Linh mục dòng Ða Minh,
bị xử trảm ngày 7/11/1773 tại Ðồng Mơ
dưới đời chúa Trịnh Sâm, được phong
Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào
ngày 7/11.
116. Vincentê Tường, Sinh
tại Phú Yên, Giáo dân, bị xử ngày 16/6/1862 tại Làng
Cốc dưới đời vua Tự Ðức,
được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức
Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.
117. Vincentê Ðỗ Yến, Sinh
năm 1764 tại Trà Lũ, Phú Nhai, Linh mục dòng Ða Minh,
bị xử trảm ngày 30/06/1838 tại Hải
Dương dưới đời vua Minh Mạng,
được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức
Lêô XIII, lễ kính vào ngày 30/06.
118. Chân
Phước Anrê Phú Yên, Sinh tại tỉnh Phú Yên
năm 1625. Rửa tội năm 15 tuổi, cùng lúc với
bà mẹ góa và các anh chị, do chính cha Ðắc Lộ (Alexandre
de Rhodes). Tử đạo ngày 26 tháng 7 năm 1644.
Ðược phong Chân Phước ngày 5/03/2000 do Ðức Thánh
Cha Gioan Phaolô II.
KINH
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Kính
lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam, Nay
chúng con xin hợp với các ngài Xưa
Chúa ban cho các ngài Các
ngài đã chấp nhận nên hạt lúa gieo vào lòng
đất, Nay
Hội thánh lại dâng các ngài lên Chúa Các
ngài đã yêu mến quê hương, Các
ngài đã cam lòng chịu chết mà không oán hận, Các
ngài đã hy sinh tất cả vì đức tin, Lạy
các thánh Tử Đạo Việt Nam
Imprimatur
: 10-8-1988, TGM. Tgp. Saigòn
|