HỎI ĐÁP KINH THÁNH

Bấm vào đây để tải xuống dạng PDF

 



HỎI ĐÁP KINH THÁNH là một lược dịch và tóm gọn từ cuốn “101 Questions and Answers on the Bible” của Cha Raymond E. Brown (1928 – 1998) . Sách này đã được Nihil Obstat và Imprimatur bởi Giáo Hội Hoa Kỳ. Nếu độc giả muốn biết rõ chi tiết về Hỏi Đáp Kinh Thánh, hãy tìm đọc nguyên bản Anh Ngữ.

Cha Brown là một học giả Kinh Thánh nổi tiếng thế giới và cha là giáo sư đầu tiên người Công Giáo dậy trong đại chủng viện Tin Lành (Union Theological Seminary) ở Nữu Ước trong 29 năm. Cha là học giả Công Giáo đầu tiên áp dụng các phương cách phê bình lịch sử đối với Kinh Thánh.

Cha Brown được bổ nhiệm vào Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng năm 1972 và 1996. Cha là chủ tịch của Hội Kinh Thánh Công Giáo, tổ chức Society of Biblical Literature, và tổ chức Society of New Testament Studies. Cha Brown được trao 24 giải thưởng danh dự bởi các đại học ở Hoa Kỳ và Âu Châu, trong đó có nhiều tổ chức Tin Lành.

Cha Brown từ trần ở California năm 1998. Đức Hồng Y Mahony đã ca ngợi cha là “học giả kinh thánh Công Giáo nổi tiếng nhất và đặc biệt nhất xuất phát từ quê hương này,” và đức hồng y nói cái chết của cha là “một mất mát lớn cho Hội Thánh”.

MỤC LỤC


1- Các sách trong Kinh Thánh của Công Giáo và Tin Lành khác nhau thế nào?

2 – Còn những cuốn được gọi là nguỵ thư (apocrypha) thì thế nào?

3 – Có thể nào một ngày nào đó, các cuốn nguỵ thư Tân Ước sẽ được công nhận là có giá trị hay không?

4 – Các phúc âm nguỵ thư này có giá trị như thế nào?

5 – Tôi nghe rằng một số phúc âm nguỵ thư có ảnh hưởng lớn trong tư duy của người Công Giáo. Điều đó có đúng không?

6 – Với những người khởi sự đọc Kinh Thánh một cách nghiêm trọng, họ phải khởi sự từ đâu, từ sách Sáng Thế và đọc cho đến Khải Huyền hay sao? Hoặc họ phải chọn vài cuốn nào đó để khởi sự?

7 – Còn những ghi chú và dẫn giải để giúp độc giả thì sao?

8 – Đối với những ghi chú và dẫn giải, không phải rằng chúng ta chỉ có được ý niệm về Kinh Thánh thôi sao? Chúng ta có phải lệ thuộc vào các học giả để hiểu Kinh Thánh không?

9 – Nói về dẫn giải Kinh Thánh, dường như nó có tính cách riêng tư. Tôi nghĩ rằng người Công Giáo không lấy làm hãnh diện về sự lệ thuộc vào những dẫn giải riêng tư, nhưng họ hãnh diện vì Giáo Hội nói cho họ biết Kinh Thánh có ý nghĩa gì.

10 – Có khi nào cha tìm thấy sự xung đột giữa những gì Công Giáo giảng dậy dựa trên Kinh Thánh và sự dẫn giải của cha về đoạn Kinh Thánh chưa?

11 – Lý do nào cha cho là quan trọng nhất để đọc Kinh Thánh?

12 – Định nghĩa Kinh Thánh là lời của Chúa thì không thật rõ ràng. Tôi có sai lầm khi nghĩ rằng “lời Chúa” có nghĩa khác nhau với những người khác nhau không?

13 – Cha muốn nói gì khi nói rằng Kinh Thánh như một thư viện?

14 – Thay vì coi Kinh Thánh là một cuốn sách mà là một tổng hợp nhiều cuốn sách trong thư viện, điều đó đưa đến kết quả gì?

15 – Chúng ta không còn tin vào sự linh ứng của Kinh Thánh nữa hay sao?

16 – Khi dân chúng nghe nói rằng không phải mọi thứ nói với chúng ta trong Kinh Thánh thì đều đúng theo nghĩa đen, chắc chắn đó là một sự xúc phạm.

17 – Nhưng chúng ta không phải coi các câu truyện Kinh Thánh theo nghĩa đen đến mức độ nào? Tôi không có khó khăn khi hiểu rằng vũ trụ không được tạo dựng trong sáu ngày, và sự sống phát sinh từ sự tiến hoá, nhưng còn ADong và EVà thì sao? Tôi nghe cha sở nói rằng chúng ta phải tin rằng đó là những người có thật.

18 – Dù câu chuyện ADong và EVà được hiểu theo nghĩa đen hay biểu tượng, nó có thực sự gây thiệt hại trong ý nghĩa làm giảm giá phụ nữ không?

19 – Chúng ta đừng để bị sa lầy trong câu chuyện của ADong và EVà. Nếu coi đó như biểu tượng hay ngụ ngôn, chúng ta phải ngừng tại đâu? Có ông Abraham, hay Môsê, hay Đavít không? Đối với tôi, dường như khi xa rời tính cách lịch sử của Kinh Thánh, cha đã mở ra một hũ mắm.

20 – Còn những khám phá khảo cổ học thì sao? Chúng không xác nhận tính cách lịch sử của phần lớn trong Kinh Thánh hay sao?

21 – Tôi nhận thấy cha thường dùng chữ “biblical criticism” (phê bình kinh thánh). Cha muốn nói gì về chữ đó?

22 – Ngay cả với việc sử dụng các phương pháp “phê bình” bởi các học giả Kinh Thánh, đối với tôi, dường như vẫn có một số sách và các đoạn rất khó hiểu trong Kinh Thánh. Đâu là những cuốn mà cha cho là khó hiểu nhất?

23 – Qua câu trả lời về sự khó khăn đó, thông điệp của Khải Huyền là gì?

24 – Khi trả lời câu hỏi về Sách Khải Huyền, cha dùng đến chữ chủ nghĩa cơ bản. Đây là điều tôi thường gặp khi nói chuyện với những người khác về Kinh Thánh. Ngay cả tôi gặp những người thuộc học phái cơ bản (fundamentalist). Tôi hoàn toàn không rõ chữ này có nghĩa gì.

25 – Cha phản ứng thế nào với chủ nghĩa cơ bản Kinh Thánh?

26 – Cho đến bây giờ, cha đã trả lời nhiều câu hỏi về Kinh Thánh một cách tổng quát với nhiều dính đáng đến Cựu Ước. Tân Ước không khác gì hay sao? Nó được viết xuống, không phải hàng trăm năm sau khi biến cố xảy ra, nhưng hầu như cùng thời. Chắc chắn rằng chúng ta có thể tin vào tính cách lịch sử của nó.

27 – Làm thế nào người tin vào sự linh ứng lại có thể đặt vấn đề tính chất đích thật của các thư Thánh Phaolô? Tân Ước nói rằng T. Phaolô đã viết các thư này.

28 – Khi cha được hỏi về tính cách lịch sử của Tân Ước, phần lớn câu trả lời của cha về các thư của T. Phaolô và nguồn tác giả. Còn các Phúc Âm thì sao? Chân dung của Đức Giêsu được phác hoạ một cách đáng tin cậy thế nào?

29 – Cha có thể nói cụ thể hơn được không? Nếu cha nói rằng các Phúc Âm không phải là những tường thuật đúng như vậy về sứ vụ của Đức Giêsu và không phải là loại tiểu sử, thì các sách ấy là gì? Chúng tôi phải hiểu thế nào về các sách ấy?

30 – Phương cách tiếp cận hiện đại đối với Phúc Âm là kết quả của việc phát triển truyền thuyết, nó có ảnh hưởng thực tế gì để chúng ta dùng Phúc Âm cho lợi ích tinh thần?

31 – Cha nói rằng các thánh sử không phải là nhân chứng. Chúng con được dậy rằng T. Mátthêu và Gioan đã viết các Phúc Âm, và những người này chắc chắn là nhân chứng cho sứ vụ của Đức Giêsu.

32 – Có thể nào chúng ta biết chắc về những lời của Chúa Giêsu đã nói khi Người còn ở thế gian không?

33 – Những câu hỏi cho đến nay và câu trả lời của cha đối phó với những gì Đức Giêsu đã nói. Tôi nghĩ còn có sự khó khăn hơn về những gì Đức Giêsu đã làm. Những phép lạ của Đức Giêsu xác thực như thế nào?

34 – Cha nói rằng truyền thống tổng quát về phép lạ của Đức Giêsu là một sự hồi tưởng xác thực về lịch sử, nhưng có thể nào chúng ta biết từng trường hợp phép lạ mà Đức Giêsu đã làm không?

35 – Trong câu trả lời của cha về tính cách lịch sử của cuộc đời Đức Giêsu, tôi nhận thấy cha không nói gì về sự sinh hạ của Người. Cha và những người khác cho rằng câu chuyện sinh hạ không có tính cách lịch sử.

36 – Nhưng chúng ta có nhân chứng là Đức Maria và Thánh Giuse về những gì xảy ra khi sinh hạ?

37 – Theo cha, đâu là những khác biệt chủ yếu giữa hai câu chuyện sinh hạ trong Phúc Âm?

38 – Nếu hai tường thuật sinh hạ quá khác biệt, tại sao chúng ta không thể cho rằng một câu chuyện có tính cách lịch sử còn câu chuyện kia có tính cách biểu tượng? Tại sao có những hồ nghi về tính cách lịch sử của mỗi câu chuyện?

39 – Vậy, nếu các câu chuyện sinh hạ không có tính cách lịch sử, chúng có giá trị gì? Chúng có khá hơn các câu chuyện dân gian không?

40 – Trong câu trả lời cha có nhắc đến các thiên thần báo tin cho T. Giuse và Đức Maria. Chúng ta có phải nghiêm trọng để ý đến vấn đề đó không? Có thiên thần không?

41 – Trong sự đề cập đến phần đầu của phúc âm Mátthêu và Luca, cha nói về thời thơ ấu hay câu chuyện sinh hạ của Đức Giêsu. Và trong Luca có câu chuyện về Đức Giêsu khi lên 12 tuổi. Chúng ta biết gì về thời niên thiếu của Đức Giêsu?

42 – Trong những câu chuyện về sự sinh hạ và niên thiếu của Đức Giêsu, Đức Maria đóng một vai trò. Đức Maria thì quan trọng thế nào trong kinh thánh?

43 – Trong những phát triển sau này về Thánh Mẫu học mà cha mới nhắc đến là Vô Nhiễm Nguyên Tội và Hồn Xác Lên Trời. Cha có thể nối kết những điều đó với Tân Ước không?

44 – Những đặc ân của Đức Maria mà cha vừa nói thì không được rõ ràng nhắc đến trong Kinh Thánh. Còn đặc ân được rõ ràng nhắc đến trong Mátthêu và Luca, có thể nói, là sự sinh hạ đồng trinh thì sao?

45 – Tôi nhận thấy rằng khi diễn tả vai trò của Đức Maria trong Phúc Âm, cha nói đến mẹ và “anh em” của Đức Giêsu. Đó không phải là ngôn ngữ Tin Lành hay sao?

46 – Còn giáo huấn Công Giáo về Đức Maria vẫn giữ đồng trinh thì sao?

47 – Tôi không hiểu. Cha nói rằng trong học thuyết Công Giáo, Đức Maria vẫn là một trinh nữ, nhưng cha lại nói rằng Tân Ước nói đến “anh chị em” của Đức Giêsu. Tại sao Tân Ước lại gọi họ như vậy?

48 – Tôi muốn biết Đức Giêsu nghĩ gì về chính mình. Người có biết mình là Thiên Chúa không?

49 – Đức Giêsu có thiết lập Hội Thánh không?

50 – Còn các bí tích thì sao? Không phải là sự hiểu biết của chúng ta về bí tích ám chỉ rằng Đức Kitô trực tiếp thiết lập hay sao?

51 – Sự tương quan giữa Kitô Hữu tiên khởi và người Do Thái là gì?

52 – Điều gì đưa đến sự tách biệt giữa Kitô Hữu với Do Thái Giáo?

53 – Mười Hai Tông Đồ đã đóng vai trò lớn lao như thế nào trong Hội Thánh Tiên Khởi?

54 – Tôi thường nghĩ Mười Hai Tông Đồ điều khiển toàn thể hội thánh. Nếu không phải vậy, Hội Thánh Tiên Khởi được tổ chức thế nào? Ai điều khiển?

55 – Còn học thuyết về các giám mục là người kế vị các tông đồ thì sao?

56 – Tôi thấy cha không nhắc nhở gì đến chức linh mục. Tại sao vậy?


1- Các sách trong Kinh Thánh của Công Giáo và Tin Lành khác nhau thế nào?


Về phần Tân Ước, Công Giáo và Tin Lành có cùng số sách (27 cuốn). Sự khác biệt là ở Cựu Ước. Người Do Thái và Tin Lành chỉ có 39 cuốn trong khi Cựu Ước của Công Giáo có 46 cuốn. Bảy cuốn khác biệt này là Tobit, Judith, 1-2 Macabee, Khôn Ngoan (của Salomon), Sirach (Huấn Ca – Giảng Viên), và Baruch. Tổng quát, các cuốn này được bảo tồn bằng tiếng Hy Lạp, không thấy trong tiếng cổ Do Thái (Hebrew) hay Aramaic.

Bộ Kinh Thánh bằng tiếng Hy Lạp thường được gọi là bộ bẩy mươi (Septuagint), đó là bản dịch từ tiếng cổ Do Thái sang tiếng Hy Lạp bởi bẩy mươi giáo sĩ Do Thái vào trước khi Đức Kitô giáng sinh và được chấp nhận rộng rãi trong Hội Thánh thời tiên khởi.

Người Tin Lành nghi ngờ nguồn gốc của 7 cuốn này vì họ không thấy trong tiếng Hebrew hay Aramaic. Các thần học gia Công Giáo thường viện dẫn các cuốn này để minh chứng cho các học thuyết mà người Tin Lành khước từ. Thí dụ, trong 2 Maccabê 12:42-46, ông Judas Maccabeus và quân lính cầu xin cho các hành động tội lỗi của binh lính tử trận có thể được xoá bỏ nhờ sự sống lại của kẻ chết, đoạn này thường được dẫn giải để hỗ trợ cho vấn đề luyện ngục.

Ngày nay người Công Giáo và Tin Lành cùng nhau nghiên cứu Kinh Thánh và các cuốn này rất quan trọng để hiểu về Do Thái Giáo thời sơ khai (Do Thái Giáo bắt đầu sau thời kỳ lưu đầy ở Babylon 587 – 539 BC), và để hiểu Tân Ước.

2 – Còn những cuốn được gọi là nguỵ thư (apocrypha) thì thế nào?


Chữ apocrypha để chỉ về những sách mà người Công Giáo cũng như Tin Lành không chấp nhận là Sách Thánh. Apocrypha gồm các sách của người Do Thái tỉ như Enoch, Jubilees, và IV Ezra. Chữ này còn bao gồm các phúc âm không được coi là chính điển (canon). Một số cuốn này được bảo quản từ xưa, nhất là cuốn Phúc Âm Nguyên Thuỷ của Giacôbê (The Protoevangelium of James) là cuốn rất quan trọng để hiểu về thái độ của tín hữu Kitô đối với thời thơ ấu của Đức Giêsu. Một số cuốn này đã bị mất và được tìm thấy trong thời đại ngày nay. Cuốn nổi tiếng là Phúc Âm của Phêrô là một tường thuật tưởng tượng về cuộc khổ nạn. Đặc biệt, trong cuối thập niên 1940, ở Nag Hammadi hoặc Chenoboskion ở Ai Cập người ta khám phá ra một tuyển tập (hầu hết là ngộ đạo thuyết – gnostic) rất phổ thông, nhưng không chính xác, được coi là các phúc âm của ngộ đạo thuyết. Trong các cuốn này có một cuốn nổi tiếng là Phúc Âm của Tôma.

3 – Có thể nào một ngày nào đó, các cuốn nguỵ thư Tân Ước sẽ được công nhận là có giá trị hay không?


Để trả lời câu hỏi này phải giải đáp một vài câu hỏi sau: Làm thế nào để Giáo Hội công nhận một văn bản là Kinh Thánh? Trong Giáo Hội ấy có thẩm quyền nào để thi hành công việc này không? Dựa trên nguyên tắc gì?

Chính hiến pháp của nhiều giáo hội Tin Lành sẽ không thể đưa ra một nhận định có thẩm quyền để công nhận bộ Kinh Thánh mới. Giáo Hội Công Giáo có một thẩm quyền để hành động, nhưng quy tắc Công Giáo để công nhận Kinh Thánh thì sẽ cản trở điều đó. Trong Công Đồng Trent, quy tắc hướng dẫn việc nhìn nhận tính cách quy điển của Kinh Thánh là sự sử dụng lâu dài và được đọc rộng rãi trong giáo hội. Do đó, ngay cả một cuốn sách cổ được khám phá, tỉ như một lá thư chính thức của T. Phaolô, sự kiện rằng thư này không được đọc trong giáo hội sẽ cản trở việc được công nhận là chính điển.

4 – Các phúc âm nguỵ thư này có giá trị như thế nào?


Nhiều khi các học giả dính dáng đến việc khám phá các văn bản đã mất hoặc phát hành các văn bản này thì lại thích những công bố giật gân. Những người nào không thích đọc bộ Kinh Thánh chính điển thì lại thích thú đọc những điều bóng gió rằng Đức Giêsu đã xuống khỏi thập giá, kết hôn với Mary Magdelene, và hai người chung sống hạnh phúc ở Ấn Độ!

Đây là những phê bình (của Cha Raymond E. Brown) về nguỵ thư: - không có cuốn nguỵ thư nào được khám phá gần đây cho chúng ta biết một chút gì về tiểu sử, dữ kiện lịch sử về cuộc đời Chúa Giêsu mà chúng ta chưa được biết. – những cuốn này giúp chúng ta biết về những suy nghĩ của các tín hữu Kitô thời thế kỷ thứ hai (và sau này) đối với Chúa Giêsu, về việc họ tưởng tượng ra các chi tiết cuộc đời của Chúa Giêsu để lấp đầy những gì mà các Phúc Âm chính điển còn thiếu, và họ đã biến Chúa Giêsu trở thành phát ngôn viên cho kiểu cách thần học của họ.

Như vậy các cuốn nguỵ thư này có giá trị ở điểm nó giúp chúng ta hiểu được các nhóm Kitô Hữu đa diện của thế kỷ thứ hai đến thứ tư. Chúng không có giá trị đem lại dữ kiện lịch sử về Kitô Giáo trước khi T. Phaolô và T. Phêrô từ trần trong thập niên 60.

5 – Tôi nghe rằng một số phúc âm nguỵ thư có ảnh hưởng lớn trong tư duy của người Công Giáo. Điều đó có đúng không?


Phải phân biệt giữa hai nhóm, một nhóm là những cuốn được biết và được chép lại từ xưa, nhóm thứ hai là những cuốn của nhóm gnostic mới được tìm thấy. Trong nhóm đầu có cuốn Phúc Âm Nguyên Thuỷ của Giacôbê, có lẽ từ giữa thế kỷ thứ hai, mà nó được sao chép và được sử dụng trong giáo hội qua nhiều thế kỷ. Cuốn này có ảnh hưởng lớn đến hình ảnh của Đức Maria đối với Kitô Hữu, vì nó tưởng tượng ra quá khứ của người trước khi được sứ thần Gabriel truyền tin. Từ cuốn đó có tên của cha mẹ Đức Maria, ông Gioankim và bà Anna. Từ đó còn có câu chuyện dâng Đức Maria vào đền thánh khi còn nhỏ - và trở thành một ngày lễ trong Giáo Hội Công Giáo và được biết bao hoạ sĩ đưa vào tác phẩm nghệ thuật trong các phòng triển lãm trên thế giới. Cũng từ cuốn đó có hình ảnh T. Giuse là một ông già tay cầm cành hoa huệ tây, vì cây gậy của người được nói rằng đã nở hoa như một dấu chỉ rằng người được kết hôn với Đức Maria.

6 – Với những người khởi sự đọc Kinh Thánh một cách nghiêm trọng, họ phải khởi sự từ đâu, từ sách Sáng Thế và đọc cho đến Khải Huyền hay sao? Hoặc họ phải chọn vài cuốn nào đó để khởi sự?


Câu trả lời tuỳ theo tính tình, kiến thức, và khả năng của người đọc. Có những người hăng say lúc đầu nhưng chán nản khi đọc đến phần phả hệ hoặc lề luật về tế lễ trong năm cuốn đầu, sau đó họ không bao giờ đọc tiếp.

Giả như một người có trình độ trung học hay đại học nhưng biết rất ít về Kinh Thánh, tốt nhất họ có thể chọn đọc theo ý thích và dễ hiểu hơn là đọc từng trang Kinh Thánh. Về Cựu Ước, họ có thể đọc từ Sáng Thế cho đến phần đầu của Xuất Hành, sau đó sang các phần Thẩm Phán, Samuel, và Các Vua để có ý niệm về nền quân chủ. Sau đó có thể từ đoạn cuối của Các Vua cho đến các phần Ezra và Nehemiah cho đến 1 Maccabees, để biết những gì xảy ra khi nền quân chủ xụp đổ và người Do Thái hồi hương sau thời lưu đầy. Sau đó đọc các đoạn từ sách Tiên Tri và Khôn Ngoan để biết về tư tưởng tôn giáo của người Do Thái qua các phát ngôn viên vĩ đại. Sách Thánh Vịnh, những lời cầu nguyện phong phú phát xuất từ các kinh nghiệm khác nhau trong đời sống, thì dễ hiểu và dễ cảm thông, dù không biết về quá trình của dân Israel.
Về Tân Ước, độc giả có thể bắt đầu với các Phúc Âm Máccô và Gioan, sau đó là Công Vụ Tông Đồ, một vài thư của Thánh Phaolô để biết tinh thần của Giáo Hội Tiên Khởi.

7 – Còn những ghi chú và dẫn giải để giúp độc giả thì sao?


Nói chung, rất tốt để đọc Kinh Thánh có những ghi chú để giải đáp những thắc mắc ngay tức thời vì mạch văn khó hiểu hay vì cần biết đến quá khứ.

Về dẫn giải, cần phân biệt tối thiểu bốn loại. Có những dẫn giải cho loại sách đơn giản (pamphlet-style) với nội dung trong một trang hay ở đầu trang và một dẫn giải ngắn gọn ở phía đối diện hay bên dưới. Loại này rất hữu ích và đầy đủ cho hầu hết loại độc giả. Với những ai muốn nghiên cứu, có loại dẫn giải dài (paperback-book) theo từng cuốn trong Kinh Thánh. Với các sinh viên nghiêm trọng, dĩ nhiên, có loại dẫn giải theo từng câu (verse-by-verse). Sau cùng còn loại dẫn giải trọn bộ Kinh Thánh (single-volume). Cách khởi sự tốt nhất là dẫn giải đơn giản.

8 – Đối với những ghi chú và dẫn giải, không phải rằng chúng ta chỉ có được ý niệm về Kinh Thánh thôi sao? Chúng ta có phải lệ thuộc vào các học giả để hiểu Kinh Thánh không?


Có những người nói rằng chỉ có các học giả mới biết được những mấu chốt của Kinh Thánh và nếu không muốn trở nên học giả thì không thể đọc Kinh Thánh. Điều này sai lầm. Vì có nhiều đoạn Kinh Thánh rất dễ hiểu và bổi bổ tâm linh mà không cần sự giúp đỡ của các học giả. Thiên Chúa có thể nói với người ta mà không cần sự cho phép của các học giả.

Tuy nhiên, khi độc giả có trình độ kiến thức ngoài đời thì khi đọc Kinh Thánh họ thường có những thắc mắc phát xuất từ sự giáo dục. Họ có chút ít kiến thức khoa học nên họ sẽ thắc mắc khi đọc Sáng Thế Ký, không biết là thế giới này thực sự được dựng nên trong sáu ngày, hoặc qua một tiến trình biến hoá lâu dài. Mặt trời có thực sự đứng một chỗ như được viết trong Joshua 10:13 không? Để trả lời những thắc mắc phát sinh từ giáo dục tổng quát, người ta cần một sự hiểu biết tương xứng về cách đọc Kinh Thánh. Có thể người ta không cần sự giúp đỡ của học giả để tìm thấy sự nuôi dưỡng tinh thần; nhưng họ có thể cần học giả để biết những câu trả lời cho những câu hỏi kiến thức, ngay cả ở mức độ phổ thông.

9 – Nói về dẫn giải Kinh Thánh, dường như nó có tính cách riêng tư. Tôi nghĩ rằng người Công Giáo không lấy làm hãnh diện về sự lệ thuộc vào những dẫn giải riêng tư, nhưng họ hãnh diện vì Giáo Hội nói cho họ biết Kinh Thánh có ý nghĩa gì.


Nhận xét này quá đơn giản hoá sự hiểu biết. Giáo Hội Công Giáo nhấn mạnh đến giá trị của truyền thống đức tin được minh chứng qua các thời đại. Lý do của sự nhấn mạnh này là vì sự tin tưởng rằng Chúa Giêsu, qua Thần Khí, vẫn tiếp tục dẫn dắt giáo hội và sẽ không để giáo hội sai lầm trầm trọng về học thuyết và luân lý. Bởi đó, Giáo Hội thường phản đối những dẫn giải riêng tư. Loại dẫn giải riêng tư mà Giáo Hội Công Giáo không tin tưởng gồm các học thuyết dựa trên những giải thích Kinh Thánh mà nó từ chối những gì đã được dậy trong kinh Tin Kính hoặc trong các công bố chính thức của giáo hội.

Đàng khác, Giáo Hội Công Giáo chưa bao giờ công bố những dẫn giải Kinh Thánh chính thức đối với các lãnh vực đã được những học giả thời nay dẫn giải. Thông thường, nhà chú giải tìm cách phân định điều mà tác giả nguyên thuỷ muốn chuyển đạt khi viết đoạn ấy, và người thời ấy phải hiểu gì khi đọc đoạn này. Nhà chú giải không tìm cách đưa ra một lập trường về học thuyết để bó buộc độc giả. Do đó, sự xung đột giữa sự dẫn giải riêng tư và học thuyết giáo hội dựa trên Kinh Thánh thì thực sự không xác đáng đối với loại chú giải vừa trình bầy.

10 – Có khi nào cha tìm thấy sự xung đột giữa những gì Công Giáo giảng dậy dựa trên Kinh Thánh và sự dẫn giải của cha về đoạn Kinh Thánh chưa?


Chưa. Và tôi trả lời như vậy không chỉ vì Giáo Hội Công Giáo không lưu tâm đến những tuyên bố về nghĩa đen của Kinh Thánh, nhưng vì các lý do sâu xa hơn. Trước hết, người ta phải rất thận trọng về những gì tạo thành học thuyết giáo hội. Có lúc người ta cho rằng bất cứ gì họ học trong lớp giáo lý đều là học thuyết của giáo hội; tuy nhiên có khi đó chỉ là sự pha trộn giữa học thuyết, ý kiến, và sự tin tưởng có tính cách đạo đức. Lãnh vực học thuyết của giáo hội thì rất hẹp.

Thứ hai, ngay cả khi có dính dáng đến học thuyết, với sự giúp đỡ của các học giả, giáo hội phân biệt học thuyết với những gì chỉ là một phương cách thuận tiện để phát biểu. Tỉ như, học thuyết giáo hội nói rằng Thiên Chúa dựng nên vũ trụ. Trong nhiều thế kỷ, nhiều người hiểu rằng Thiên Chúa dựng nên vũ trụ giống như được diễn tả trong các chương đầu của Sáng Thế Ký. Dưới ảnh hưởng của các học giả tân thời về Sáng Thế Ký, bây giờ Giáo Hội Công Giáo rất rõ ràng rằng, học thuyết về sự tạo dựng của Thiên Chúa không bao gồm kiểu cách Người tạo dựng. Do đó người ta được tự do cho rằng các chương đầu của Sáng Thế Ký thì không phải là một tường thuật có tính cách lịch sử và họ chấp nhận sự tiến hoá.

Thứ ba, tôi nhận thấy rằng nhiều khi có những điều rất hiển nhiên đối với học giả của thế kỷ này thì lại được coi là sai lầm bởi các học giả của thế kỷ kế tới. Tuy nhiên, ít khi có sự mâu thuẫn giữa các học giả vì họ biết những nghiên cứu của họ chỉ có giới hạn và họ tôn trọng học thuyết chân chính của giáo hội. Nếu có những xung đột, dù ẩn giấu dưới hình thức nào đi nữa, thường đó chỉ là sự giải thích giữa hai học giả. Thật may mắn, trong đời tôi và trong lãnh vực kinh thánh, không có sự căng thẳng giữa học giả và các người giảng dậy chính thức của giáo hội. Điều này không đúng trong lãnh vực thần học.

11 – Lý do nào cha cho là quan trọng nhất để đọc Kinh Thánh?


Tôi phải phân biệt giữa câu trả lời về thần học và câu trả lời thực tế. Về thần học, câu trả lời hiển nhiên rằng, Kinh Thánh là lời Chúa trong một phương cách độc đáo mà không giống với bất cứ sáng tác nào của con người. Người Công Giáo thường bị lên án là ít quý trọng Kinh Thánh; tuy vậy Công Đồng Vatican II khẳng định rằng giáo hội thì không cao hơn lời Chúa nhưng phải phục vụ lời ấy, và chúng ta phải kính trọng lời Chúa trong Kinh Thánh tương tự như chúng ta kính trọng Ngôi Lời hoá thể trong bí tích Thánh Thể.

Câu trả lời về thần học có thể xa vời với nhiều người, và sau đây là câu trả lời thực tế và cá biệt mà tôi thấy quan trọng nhất trong việc đọc Kinh Thánh. Là một Kitô Hữu, tôi tìm kiếm ý hướng của Chúa trong đời sống qua mọi hoàn cảnh mà tôi đối diện. Là một linh mục, tôi lưu tâm đến đường hướng của Thiên Chúa cho Hội Thánh. Kinh Thánh đem lại nhiều cảm nghiệm khác biệt của dân Chúa khi tìm kiếm thánh ý Chúa trong các hoàn cảnh đa dạng mà trong đó tôi cũng có thể khám phá ra một hoàn cảnh tương tự như của tôi hoặc của giáo hội. Trong các câu chuyện Kinh Thánh, người ta có đến hai ngàn năm tiếp xúc với Thiên Chúa trong những hoàn cảnh khác biệt, riêng tư hay tập thể. Một trong những xúc động của việc đọc Kinh Thánh và một trong những đặc tính hấp dẫn nhất của Kinh Thánh là người đọc “khám phá” ra những hoàn cảnh trong Kinh Thánh cũng tương tự như của chính mình. Những gì mà Thiên Chúa đòi hỏi sự đáp ứng trong quá khứ thì Người cũng đòi hỏi trong ngày nay.

12 – Định nghĩa Kinh Thánh là lời của Chúa thì không thật rõ ràng. Tôi có sai lầm khi nghĩ rằng “lời Chúa” có nghĩa khác nhau với những người khác nhau không?


Không, tôi không nghĩ bạn sai. Có sự mơ hồ trong việc sử dụng từ này. Tôi chỉ có thể nói với bạn về cách tôi hiểu và sử dụng từ này với ý thức rằng đây là chữ mà nhiều người có nghiên cứu Kinh Thánh cũng nói như vậy.

Khi phân tích câu “lời của Thiên Chúa” hãy để tôi bắt đầu với chữ “Thiên Chúa” trong sự diễn tả này. Điều muốn nói là công trình này xuất phát từ Thiên Chúa, hoặc có liên hệ đến Thiên Chúa trong một phương cách độc đáo. Thiên Chúa hướng dẫn loài người qua nhiều phương cách, thí dụ, qua giáo hội, qua sự giảng dậy chính thức, qua gia đình. Và, dĩ nhiên, Người cung cấp sự hướng dẫn không chỉ trong các tôn giáo thuộc Kitô Giáo, nhưng cả trong Do Thái Giáo, và trong các tôn giáo khác. Thiên Chúa không bao giờ im lặng đối với những ai có lòng thành thật muốn tìm kiếm Người. Nhưng trong truyền thống Kitô-Do Thái Giáo về Kinh Thánh, Thiên Chúa đã ban cho sự hướng dẫn độc đáo trong hình thức chữ viết, nó bao gồm những ghi chép về cách Người đối xử với dân Israel và Hội Thánh Tiên Khởi. Kinh Thánh là thư viện của Israel và thư viện của Hội Thánh Tiên Khởi để bảo tồn một kinh nghiệm căn bản mà nó có thể dùng như một hướng dẫn cho dân Chúa sau này.

Nếu trở về với chữ “lời” trong sự diễn tả, chúng ta đang công nhận yếu tố nhân bản trong Kinh Thánh. Người ta nói những lời lẽ và tạo âm thanh, và từng chữ trong Kinh Thánh được một người viết xuống. Một người nghĩ về các chữ Kinh Thánh, và những chữ đó phản ảnh ý nghĩa và cảm nghiệm của tác giả trong suốt cuộc đời mình. Do đó, nếu cho phép tôi quảng diễn, có một loại khía cạnh hoá thể (incarnate) đối với Kinh Thánh: Thiên Chúa truyền đạt sự hướng dẫn của Người trong và qua lời lẽ con người. Có lẽ khía cạnh của chữ “lời” trong diễn tả này gợi lên tính cách đa dạng của phương cách tiếp cận mà chữ “lời Chúa” mang ý nghĩa.

Phương cách giải thích theo nghĩa đen cho rằng Thiên Chúa đọc cho viết đến độ chính những chữ này xuất phát từ Thiên Chúa và con người chỉ việc viết xuống. Một hình thức tế nhị hơn phương cách trên là Thiên Chúa đọc vào tâm trí con người.

Khi người ta càng công nhận yếu tố sáng tác của con người và chọn lựa chữ viết, người ta càng nhận thấy có sự phối hợp giữa Thiên Chúa và con người trong Kinh Thánh.

Phương cách giải thích theo nghĩa đen ngụ ý rằng Kinh Thánh không có sai lầm và có tính cách toàn bộ, kể cả kiến thức về khoa học và lịch sử. Mọi tuyên bố trong Kinh Thánh phải đúng như chữ viết và đầy đủ.

Càng công nhận yếu tố con người trong Kinh Thánh, người ta càng nhìn nhận những giới hạn về kiến thức và, nhiều khi, những sai lầm.

13 – Cha muốn nói gì khi nói rằng Kinh Thánh như một thư viện?


Thường chúng ta nói về “Kinh Thánh” theo số ít như thể đó là một cuốn sách. Điều đó ám chỉ nguồn gốc từ Thiên Chúa. Tuy nhiên, Kinh Thánh là tổng hợp của khoảng 70 cuốn sách. Nhưng kiểu nói “thư viện” của tôi thì không chỉ liên quan đến số sách; điều quan trọng là phải biết rằng Kinh Thánh bao gồm các sách với nhiều thể loại văn chương, được viết vào những thời kỳ và nơi chốn khác nhau. Có lẽ các sách Cựu Ước đầu tiên được hình thành vào khoảng 800 hay 700 năm trước Đức Kitô; cuốn sau cùng của Tân Ước được viết xuống có lẽ vào đầu thế kỷ thứ hai. Đó là lý do người ta ước lượng một ngàn năm sáng tác. Trong giai đoạn này, các tác giả Kinh Thánh sẽ phải đối diện với nhiều khó khăn khác nhau, và sẽ miêu tả các giai đoạn khác nhau về ý niệm thần học mà nó tạo thành điều kiện trong đó họ tường thuật về sự mặc khải của Thiên Chúa. Chúng ta không cho rằng tác giả con người nhìn thấy toàn thể vấn đề. Vấn đề được họ nhìn thấy thì được khuôn đúc bởi những gì sẽ giúp ích cho người cùng thời với họ. Khi cho rằng Thiên Chúa nói qua tác giả con người thì điều đó không làm mất đi những giới hạn, bởi vì Thiên Chúa luôn luôn đối xử với con người trong tình trạng và điều kiện của họ.

14 – Thay vì coi Kinh Thánh là một cuốn sách mà là một tổng hợp nhiều cuốn sách trong thư viện, điều đó đưa đến kết quả gì?


Ở đây, thuật ngữ có ảnh hưởng thực tế. Khi ai đó đến nói với tôi, “Kinh Thánh nói như thế này,” phản ứng đầu tiên của tôi là, “Sách nào trong Kinh Thánh?” Cùng một chủ đề, người ta có thể có những câu trả lời rất khác cho cùng một vấn đề.

Hơn nữa, khi coi Kinh Thánh là một thư viện, điều đó ảnh hưởng đến sự mong đợi của độc giả khi họ mở các trang của một tác giả nào đó. Trong một thư viện ngày nay, sách được xếp theo chủ đề: có phần về lịch sử, về tiểu sử, về tiểu thuyết, về kịch nghệ, về thơ văn, v.v. Nếu ai đó bước vào thư viện và hỏi mượn một cuốn sách, câu hỏi đầu tiên của người thủ thư là “Loại sách nào?” Đó cũng là câu hỏi rất quan trọng khi đọc Kinh Thánh.

Một số sai lầm trầm trọng về sự dẫn giải Kinh Thánh xuất phát từ những thừa nhận, không có gì bảo đảm, rằng mọi sách trong Kinh Thánh đều thuộc loại lịch sử. Ngày nay, các sách đều có bìa để cho độc giả biết loại sách gì, và theo dữ kiện đó độc giả tự động thay đổi sự mong đợi trong tâm trí. Không ai cầm một cuốn truyện Sherlock Holmes và hy vọng rằng sẽ biết được lịch sử chính xác của một nhân vật sống ở Luân Đôn vào cuối thế kỷ vừa qua.

Các sách trong Kinh Thánh không có bìa, và một công việc quan trọng của học giả là cung cấp phần giới thiệu từng cuốn sách để giúp nhận diện nó. Người ta mất thời giờ để đo họng của con cá để chứng minh tính cách lịch sử của cuốn Sách Tiên Tri Giôna. Phần dẫn nhập nói với độc giả rằng đây là một dụ ngôn, không phải sử ký, sẽ giúp họ khỏi hoang mang rất nhiều.

15 – Chúng ta không còn tin vào sự linh ứng của Kinh Thánh nữa hay sao?


Tôi tin có chứ. Và như tôi biết cho đến nay, hầu hết các học giả Kinh Thánh ôn hoà sẽ không từ chối thuật ngữ đó, miễn là sự ứng dụng của nó được hiểu một cách chính xác. Câu hỏi này thường được nêu lên sau khi tôi giải thích là có nhiều sách thuộc nhiều loại khác nhau trong Kinh Thánh, chính sự kiện đó ám chỉ rằng không có sự liên can rõ ràng của dữ kiện linh ứng. Thường được nghĩ rằng sự linh ứng làm cho mọi sự thành lịch sử. Không phải vậy; có thể có thơ văn, kịch nghệ, huyền thoại, giả tưởng, v.v. được linh ứng. Nếu Sách Giôna là một dụ ngôn và không phải lịch sử, thì sự linh ứng của Thiên Chúa làm cho nó trở nên một dụ ngôn được linh ứng. Sự thật mà nó truyền đạt về ý muốn của Thiên Chúa là hoán cải mọi quốc gia để nhận biết Danh Người và biết đến lối sống phù hợp luân lý mà nhờ đó sẽ đem lại hạnh phúc cho các quốc gia, đó là một chân lý mà chúng ta có thể chấp nhận là lời Chúa được linh ứng cho chúng ta. Sự linh ứng không có nghĩa chúng ta phải tin rằng một nhân vật lịch sử nào đó có tên là Giôna bị nuốt sống bởi con cá thật lớn. Chúng ta chỉ phải đối phó với dữ kiện đó chỉ khi nào Sách Giôna là lịch sử được linh ứng. Tương tự, nếu các chương đầu của Sáng Thế Ký không được xếp vào nhánh khoa học của thư viện, nhưng trong nhánh gọi là hiểu biết tôn giáo và truyền thuyết, chúng ta vẫn nhìn nhận sự tạo dựng vũ trụ của Thiên Chúa là một chân lý được linh ứng được truyền đạt qua các chương ấy. Tuy nhiên, chúng ta không chấp nhận sự diễn tả của Sáng Thế Ký như một tường thuật có tính cách khoa học về nguồn gốc của vũ trụ. Nó có thể là một tường thuật mà tác giả biết được từ những hình ảnh truyền thuyết của dân tộc ông và của các dân tộc khác và rồi ông ta dùng để truyền đạt chân lý mà ông ta thực sự quan tâm, rằng Thiên Chúa thì cao hơn tất cả và là người tạo nên vũ trụ. Như thế, không có sự mâu thuẫn giữa việc chấp nhận sự linh ứng và chấp nhận những khác biệt về thể loại văn chương, hay hình thức, hay nét đặc trưng trong Kinh Thánh.

16 – Khi dân chúng nghe nói rằng không phải mọi thứ nói với chúng ta trong Kinh Thánh thì đều đúng theo nghĩa đen, chắc chắn đó là một sự xúc phạm.


Tôi không chắc điều đó đúng đến mức nào, bởi vì càng ngày thành phần khán giả càng phức tạp hơn, tối thiểu trong các quốc gia tân tiến. Tôi không tin rằng nhờ sự giáo dục từ tiểu học đến trung học, người ta dần dà nhận thức được rằng nhiều phần của Kinh Thánh thì không phải là sự tường thuật theo nghĩa đen về dữ kiện lịch sử. Khi nói rằng điều đó được sự hỗ trợ của giáo hội, nó có xúc phạm người ta hay không có lẽ điều đó tuỳ thuộc vào cách nói.

Tôi không bao giờ nghĩ rằng điều đó hữu ích khi có ai đó đứng trên toà giảng hay trong lớp và tuyên bố rằng sự kiện này nọ trong Kinh Thánh thì không bao giờ xảy ra. Về phương diện sư phạm, một chút kiến thức tiêu cực không thể giúp ích cho giáo dân về tinh thần, và tuyên bố một điều như vậy trong khung cảnh nhà thờ thì không giúp dân chúng hiểu biết về Thiên Chúa. Nhưng khi người dậy để ý đến cả hai mục đích của sách và mục đích của sự truyền đạt, tôi không nghĩ có sự xúc phạm khi giảng dậy từng cuốn trong Kinh Thánh theo thể loại văn chương thích hợp, lịch sử là lịch sử, dụ ngôn là dụ ngôn.

Để tôi đưa ra một áp dụng thực tiễn của điều này. Nhiều khi, vì sợ mang tiếng xấu, một số người nói rằng tốt hơn nên coi sự tường thuật không có tích cách lịch sử như có tích cách lịch sử và như vậy sẽ không gặp khó khăn. Đó là một quan niệm sai lầm nguy hiểm. Chân lý của Thiên Chúa phải được phục vụ bởi sự hiểu biết tốt nhất của con người, và khi dậy người ta chấp nhận điều gì đó mà học lực uyên thâm thấy là sai lầm, chúng ta làm nguy hại cho việc chấp nhận chân lý của Thiên Chúa. Không sớm thì muộn, những ai nghe giảng dậy rằng Giôna là một nhân vật lịch sử, hay các chương đầu của Sáng Thế Ký có tính cách lịch sử, họ sẽ nhận ra sự lầm lạc đó và, hậu quả là, có thể họ từ chối chân lý được Thiên Chúa linh ứng trong các chương đó.

Khi nghiên cứu bất cứ đoạn Kinh Thánh nào, người ta không cần phải nêu lên những vấn đề mà khán giả không cách chi có thể hiểu hay có thể hoài nghi; nhưng sự im lặng kín đáo về các vấn đề thật phức tạp thì không giống như sự giảng dậy điều gì đó được cho là sai lầm. Khi giảng dậy về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, tôi không đi vào những phức tạp của lịch sử. Nhưng tôi cũng không gợi ý cách ngấm ngầm hay rõ ràng rằng các biến cố đó là lịch sử và phải tin. Sự thách đố của người giảng dậy có lẽ là phải bước đi giữa hai ranh giới, một là xác nhận rằng tất cả những điều này xảy ra theo nghĩa đen, và một là gợi ý rằng đây chỉ là một câu truyện. Đó là một câu truyện mà trong đó một sự thật được linh ứng của Thiên Chúa được nói với chúng ta.

17 – Nhưng chúng ta không phải coi các câu truyện Kinh Thánh theo nghĩa đen đến mức độ nào? Tôi không có khó khăn khi hiểu rằng vũ trụ không được tạo dựng trong sáu ngày, và sự sống phát sinh từ sự tiến hoá, nhưng còn ADong và EVà thì sao? Tôi nghe cha sở nói rằng chúng ta phải tin rằng đó là những người có thật.


Tôi ao ước có thời giờ để được nghe cha sở đó giải thích, nhưng cũng có thể người muốn nói như vậy. Đúng vậy, khi trong đại chủng viện, tôi được dậy bảo về một phương cách tiếp cận theo nghĩa chữ về ADong và EVà. Một phần là vì câu trả lời của Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng ngay đầu thế kỷ đã định rõ những phần nào của câu chuyện Sáng Thế phải hiểu theo nghĩa đen, kể cả sự xuất hiện của ma quỷ dưới hình thức con rắn. Chúng tôi được bảo phải chấp nhận là sự thật rằng người phụ nữ đầu tiên được hình thành từ người nam đầu tiên và có sự đồng nhất trong giống người, với ý nghĩa rằng mọi người được xuất phát từ các cha mẹ đầu tiên. Nếu cha sở của bạn được huấn luyện trước thời 1955, có lẽ đó là điều người được dậy bảo. Nhưng vào năm 1955, vị thư ký của Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng tuyên bố rằng người Công Giáo ngày nay có “hoàn toàn tự do” về những câu trả lời trước đây của uỷ ban ngoại trừ những gì đề cập đến đức tin và luân lý. Do đó, ngày càng có sự tự do về tính cách nghĩa đen của câu chuyện Sáng Thế.

Tuy nhiên, vấn đề ADong và EVà bị phức tạp hơn khi trong tông huấn Humani Generis của Đức Giáo Hoàng Piô XII năm 1950, người nhắc đến thuyết đa nguyên (polygenism), có thể nói thuyết này nói rằng không chỉ có một đôi cha mẹ sinh ra loài người bây giờ trên trái đất mà có nhiều cặp cha mẹ. Nhưng khoa học ngày nay có khuynh hướng cho rằng mọi người đều là hậu duệ của một đôi cha mẹ.

Vấn đề một hay nhiều đôi cha mẹ, một phần nó thuộc về vấn đề khoa học, và bởi vậy khi nói về tôn giáo chúng ta phải tránh đừng quá thiên về lập trường khoa học này nọ, bởi vì không thể chứng minh bất cứ lập trường nào. Sự lưu tâm đích thực có tính cách tôn giáo về câu chuyện của ADong và EVà là, dù đó là một đôi hay nhiều đôi cha mẹ, tất cả được Thiên Chúa dựng nên vì Thiên Chúa đã thổi hơi ban linh hồn cho họ. Hơn thế nữa, họ được dựng nên cách tốt lành, và không phải xấu xa, giống như chúng ta được dựng nên cách tốt lành chứ không xấu xa. Tuy nhiên, trong con người có khuynh hướng tội lỗi vượt trên cả tội lỗi cá nhân mà chúng ta có thể phạm; khuynh hướng sự dữ này là một phần của sự sa đoạ mà loài người đã đưa vào thế gian, không phải là một ban tặng của Thiên Chúa. Như vậy chúng ta có thể giữ lại phần cốt yếu của ý niệm “tội nguyên tổ” (tuy thuật ngữ này không phù hợp Kinh Thánh nhưng phản ảnh những phát biểu rõ ràng của các Giáo Phụ và Thánh Augustine). Chúng ta cũng có thể nhận thấy tính cách khéo léo của câu chuyện ADong và EVà khi truyền đạt ý niệm về tội lỗi và nguồn gốc của nó, và chúng ta không nghĩ rằng có thể tìm thấy một câu chuyện khác tốt hơn câu chuyện đó.

18 – Dù câu chuyện ADong và EVà được hiểu theo nghĩa đen hay biểu tượng, nó có thực sự gây thiệt hại trong ý nghĩa làm giảm giá phụ nữ không?


Tôi không muốn là kẻ dại khờ đâm đầu vào chỗ mà thiên thần cũng sợ không dám bước đến; và vì thế, trong khi cố gắng trả lời câu hỏi này, tôi không muốn nêu lên vấn đề về phụ nữ bình quyền mà nó vượt trên năng lực của tôi là một học giả Kinh Thánh và một người đàn ông. Tôi nghĩ rằng khi được hiểu đúng, câu truyện Sáng Thế thì không giảm giá phụ nữ, dù rằng tôi nhận thấy một vài đoạn trong các phần khác của Kinh Thánh có thể có tính cách xúc phạm, vì chúng phản ảnh một số thành kiến vào thời bấy giờ mà trong thời gian đó chúng được viết xuống. Việc tạo thành người phụ nữ từ sườn của người đàn ông trong ST 2:21 thì chính yếu không được viết để cho thấy rằng phụ nữ là nhân vật thứ yếu xuất phát từ đàn ông. Thật vậy, khi ADong nhìn thấy người phụ nữ trong ST 2:23, phản ứng ngay tức khắc của ông là nói rằng, đây là “xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi”, nói cách khác, đó người rất giống như tôi – chứ không phải là một thú vật hay một tạo vật kém hơn. Toàn thể câu chuyện là một lý luận chống với lý thuyết rằng phụ nữ chỉ là một sở hữu của đàn ông nên được xếp vào hạng thấp kém hơn. Sáng Thế Ký khẳng định rằng (1:27) từ nguyên thuỷ của giống người Thiên Chúa dựng nên người nam và người nữ theo hình ảnh của Thiên Chúa là một xác nhận sự bình đẳng của hai phái tính trước mặt Thiên Chúa, phản ánh Thiên Chúa theo phương cách bù đắp. Người ta cần biết một chút về thân phận thấp kém của phụ nữ, không chỉ trong các quốc gia lân cận mà ngay chính trong Israel, để nhận thấy rằng chính trong một phương cách thực tế tác giả Sáng Thế Ký đang sửa sai sự bất bình đẳng và thuyết phụ nữ thấp kém. Như vậy câu truyện Sáng Thế đem lại cho người rao giảng một cơ hội để dậy một số giá trị căn bản về phẩm giá của cả hai phái.

19 – Chúng ta đừng để bị sa lầy trong câu chuyện của ADong và EVà. Nếu coi đó như biểu tượng hay ngụ ngôn, chúng ta phải ngừng tại đâu? Có ông Abraham, hay Môsê, hay Đavít không? Đối với tôi, dường như khi xa rời tính cách lịch sử của Kinh Thánh, cha đã mở ra một hũ mắm.
Không hồ nghi rằng phương cách tiếp cận hoàn toàn theo nghĩa chữ thì đơn giản hơn; nhưng trong đời sống cũng có nhiều hũ mắmvà câu trả lời đơn giản thường không có kết quả. Bằng cách nào đó, chúng ta có thể chấp nhận sự phức tạp của hàng ngàn khía cạnh khác trong đời sống; nhưng chúng ta thấy khó chịu khi có sự phức tạp giữa Thiên Chúa và loài người.

Giả như tôi hỏi bạn rằng, bạn có thực sự nghĩ là TT Washington đã đốn ngả cây anh đào, hoặc ném đồng bạc ngang qua sông Potomac, hoặc ngủ trong tất cả các căn lều mà ông cho rằng phải ngủ ở trong đó không, có thể bạn sẽ trả lời rằng, “Tôi nghĩ rằng một số điều đó là huyền thoại.” Vậy bạn sẽ trả lời sao nếu tôi hỏi, “Nếu bạn bắt đầu nghi ngờ những điều về TT Washington, làm thế nào bạn biết rằng TT Lincoln đã dẫn Liên Quân chiến thắng phe miền Nam, hoặc Teddy Roosevelt chủ toạ việc xây cất kênh đào Panama?” Không bao lâu bạn sẽ bị buộc phải nhìn nhận rằng có những chứng cớ khác biệt cho những thừa nhận khác biệt, và có khi những câu chuyện về một số nhân vật nào đó thì được kể lại với ít nhiều hương vị huyền thoại trong khi câu chuyện về những người khác là sự thật không tô điểm. Điều này cũng được nhận thấy trong các câu chuyện có liên hệ đến các nhân vật trong Kinh Thánh. Các câu chuyện trực tiếp liên hệ đến ông Abraham có khung cảnh lịch sử tổng quát; nhưng ông được trình bầy như cha của hai người, Israel và Ismael (người Ả Rập), do đó có ít nhiều đặc tính biểu tượng đối với câu chuyện đó. Câu chuyện của Môsê là một phần của thiên anh hùng ca dân tộc trong đó những thành tích của cá nhân được pha trộn với lịch sử của một dân tộc. Nhiều phần của câu chuyện Đavít có lẽ phát xuất từ một người viết tiểu sử các vua, là người sống trong giai đoạn lịch sử đó và viết tương đối sự thật. Trong cả ba tường thuật đều có tính cách lịch sử, nhưng thay đổi ít nhiều số lượng lịch sử và chi tiết. Nó có thể là hũ mắm, nhưng chúng ta cũng có hũ mắm tương tự về lịch sử Hoa Kỳ hoặc bất cứ lịch sử nào. Chúng ta phải chấp nhận điều phiền toái rằng Thiên Chúa đã không miễn cho lịch sử Israel khỏi những thăng trầm như lịch sử của các dân tộc khác.


20 – Còn những khám phá khảo cổ học thì sao? Chúng không xác nhận tính cách lịch sử của phần lớn trong Kinh Thánh hay sao?


Khảo cổ học đem lại một hình ảnh pha trộn. Chắc chắn là những khám phá khảo cổ học đem lại nhiều hiểu biết về phong tục, hoàn cảnh xã hội và môi trường vật lý thời Kinh Thánh. Chúng ta thấy sự khám phá về các thành phố và nhà cửa mà người Israel thời Kinh Thánh sống trong đó. Ngay cả trong thời Tân Ước, những khám phá khảo cổ học soi sáng một số thực hành tỉ như việc đóng đinh trên thập tự và cách chôn cất, cũng như các đường phố ở Giêrusalem mà có lẽ Đức Giêsu đã đi qua.

Tuy nhiên, khi phải xác nhận sự chính xác về tính cách lịch sử của một biến cố trong Kinh Thánh, những khám phá khảo cổ học không có cùng một động lực. Thí dụ, trong cuộc đào xới thành Giêricô lúc đầu, sự khám phá các bức tường đổ nát xác nhận sự tường thuật trong Kinh Thánh về việc ông Giôsua tiêu huỷ các tường này. Tuy nhiên, các kỹ thuật mới đây cho thấy tuổi của các bức tường này thì đã có từ lâu trước thời ông Giôsua, và dường như thành Giêricô không bị chiếm đóng vào thời ông Giôsua. Nói rằng khảo cổ học chứng minh Kinh Thánh, điều đó không chính xác và lầm lạc.

21 – Tôi nhận thấy cha thường dùng chữ “biblical criticism” (phê bình kinh thánh). Cha muốn nói gì về chữ đó?


Đó là một chữ không thích hợp trong một số phương cách. Trong tiếng Anh phổ thông, “criticism” (phê bình) gồm sự phán đoán tiêu cực, và chắc chắn rằng chúng ta không muốn nói đến một thái độ tiêu cực đối với Kinh Thánh. Trong một cách sử dụng ít phổ thông, chữ này gồm việc đọc và phân tích kỹ lưỡng một tác phẩm. Tỉ như, một tờ báo có mục điểm phim và điểm sách (book critic) cho thấy một vài khía cạnh khác của điều được “phê phán” hay “bình phẩm”.

Trong trường hợp Kinh Thánh, có vài hình thức phê bình kinh thánh. Một hình thức thẩm định Kinh Thánh như tác phẩm văn chương (literature criticism) và để ý đến vài kỹ thuật mà các tác giả sử dụng để đạt được mục đích của họ. Một hình thức phê bình kinh thánh khác là phê bình theo tính cách qui điển (canonical criticism). Tác phẩm này có phải là một phần của qui điển thánh kinh không? Cuốn này có liên quan thế nào với các cuốn được viết trước đó hay sau đó?
Trong nhiều hình thức phê bình Kinh Thánh, cho đến bây giờ tôi chỉ kể ra có hai loại. Nhưng khi nói về phê bình Kinh Thánh, một học giả thường nghĩ đến là sự phê bình theo tính cách lịch sử (historical criticism). Nó bao gồm việc tìm hiểu về tác giả (quá khứ, hoàn cảnh cá biệt, mục tiêu), về khung cảnh mà trong đó họ sáng tác (những vấn đề nào họ phải đối diện?), và về độc giả hay thính giả là những người mà tác giả muốn nói với (Họ là ai? Vấn đề là gì? Họ hiểu thế nào?). Nó còn bao gồm việc phán đoán về bản chất của tác phẩm – xếp loại một cuốn sách theo phần đặc biệt nào đó trong thư viện. Nói cách khác, sự phê phán sử học bao gồm những câu hỏi về một cuốn sách trong kinh thánh giống như những câu hỏi đối với bất cứ cuốn nào khác nếu người ta muốn khám phá ra ý nghĩa mà sách ấy muốn chuyển đạt. Đằng sau tất cả những điều nói trên, có sự tin tưởng chắc chắn rằng sự linh ứng của Thiên Chúa đối với Kinh Thánh không làm cho quan điểm và ngữ cảnh của tác giả trở nên không thích hợp. Trong khi Thiên Chúa biết hết mọi sự, tác giả con người thì không biết; và vì vậy, những chữ được tác giả Kinh Thánh sử dụng thì không phải là câu trả lời cho mọi thắc mắc.

22 – Ngay cả với việc sử dụng các phương pháp “phê bình” bởi các học giả Kinh Thánh, đối với tôi, dường như vẫn có một số sách và các đoạn rất khó hiểu trong Kinh Thánh. Đâu là những cuốn mà cha cho là khó hiểu nhất?


Tôi chủ yếu nghiên cứu về Tân Ước, do đó tôi sẽ thay đổi câu hỏi thành: Trong Tân Ước, đâu là cuốn khó hiểu nhất? Dù vậy, tôi vẫn muốn phân biệt thêm nữa với hai quan điểm: của học giả và của độc giả. Về quan điểm độc giả, tôi cho rằng cuốn khó hiểu nhất trong Tân Ước là cuốn Khải Huyền. Về phương diện học giả, tôi không thấy quá khó vì các học giả thường đọc các cuốn cùng loại như vậy – các khải huyền của Do Thái đầy dẫy những hình ảnh biểu tượng của sự thiện và sự dữ. Do đó, các học giả được cảnh giác rằng đừng giải thích hình ảnh Khải Huyền theo nghĩa đen, nhưng hãy đọc nó như người Do Thái quen đọc loại văn chương này.

Dù ngày nay chúng ta thường dùng chữ “apocalyptic” (khải huyền, thiên khải, hiển thị) để chỉ về những biến cố đáng lo ngại và quá độ, loại văn của khải huyền theo kiểu kinh thánh thì không phải là một hình thức quen thuộc của kiểu viết hiện thời. Do đó, khi cầm một cuốn sách Khải Huyền hay Mặc Khải của Gioan, độc giả ngày nay có khuynh hướng hiểu theo nghĩa đen những tiên đoán hay giản đồ khi tận thế. Điều này tạo ra sự mơ hồ khủng khiếp. Vì vậy, từ quan điểm đó, tôi nói rằng có lẽ sách Khải Huyền là cuốn khó hiểu nhất.

23 – Qua câu trả lời về sự khó khăn đó, thông điệp của Khải Huyền là gì?


Chữ Khải Huyền (Apocalypse) được dịch từ tiếng Hy Lạp Apokalypsis, có nghĩa vén mở. Chữ Mặc Khải (Revelation) được dịch từ tiếng Latinh Revelatio cũng có nghĩa vén mở (tiết lộ). Như vậy nó hàm ý một sự hiểu biết của điều được che giấu.

Để trả lời câu hỏi của bạn về thông điệp này, trước hết tôi sẽ nói những gì không đúng. Chúng ta không cần phải cho rằng tác giả đã có hay đã được Thiên Chúa ban cho sự hiểu biết về tương lai. Do đó, thật vô ích khi suy đoán về trái đất sẽ kéo dài bao lâu, hoặc còn bao lâu nữa thì Đức Kitô sẽ đến, hoặc khi nào tận thế - là những suy đoán dựa trên sách Khải Huyền, hoặc trên sách Đanien mà trong đó cũng có những thị kiến.

Thông điệp căn bản của Khải Huyền là niềm hy vọng trong thời gian bị bách hại. Tác giả dùng ngôn ngữ biểu tượng, tỉ như những quái vật to lớn, con rồng, trận lụt, hoả hoạn, v.v., để diễn tả thời kỳ của ông như một quãng thời gian đầy tai hoạ và đau khổ ghê gớm tạo nên bởi sự dữ. Giữa thời kỳ này, ông muốn trấn an độc giả rằng Thiên Chúa kiểm soát mọi sự, từ đó có hình ảnh cuốn sách mở ra trên thiên đàng mà trong đó mọi sự đã được viết xuống, hoặc về một giai đoạn trong đó có nhiều hoạt động khác nhau xảy ra với giới hạn của nó, hoặc về các thiên thần có thể chiến thắng các con thú hung dữ. Tác giả muốn nói với những người bị bách hại rằng họ đừng tuyệt vọng, vì Thiên Chúa sẽ chấm dứt mọi điều này và chiến thắng. Thiên Chúa sẽ cứu những ai còn trung thành và tiêu diệt sức lực của sự dữ. Khi nào những điều này xảy ra? Không bao lâu. Và người ta có thể nói “không bao lâu” dù là tác phẩm được viết 500 năm trước Đức Kitô giáng sinh (Ezekiel), hoặc 250 năm trước Đức Kitô (Daniel), hoặc vào cuối thế kỷ đầu tiên (Khải Huyền và các sáng tác của Do Thái tỉ như IV Ezra). “Không bao lâu” được nhìn từ quan điểm của Thiên Chúa và xảy ra bởi sự tin tưởng vững vàng rằng Thiên Chúa không để Dân Người bị chà đạp và bị tiêu diệt vô hạn định.

Còn một thông điệp sâu xa hơn mà tôi chỉ đề cập cách ngắn gọn. Có sự tin tưởng rằng những gì xảy ra trên trái đất được thấy rõ ràng qua các chiến tranh, sự bách hại, và tai ương, đó chỉ là một phần mờ nhạt và không quan trọng trong toàn thể thực tại. Quan trọng hơn nhiều là những gì xảy ra trên thiên đàng, theo cả hai nghĩa, sự chúc tụng Thiên Chúa bởi vô vàn thiên thần và các thánh, và sự chiến thắng của Thiên Chúa trên các sức lực sự dữ siêu nhiên (tỉ như, Tổng Lãnh Thiên Thần Micae chiến thắng Satan).

Một văn gia khải huyền thường thấy những gì trên thiên đàng cùng lúc với những gì trên trái đất, và đem lại cho độc giả một cảm nhận về một thực tại rộng lớn vượt trên cả vũ trụ. Những lễ nghi huy hoàng trên thiên đàng là một phần của thực tại này nếu chúng ta có con mắt đức tin để nhận biết. Và vì vậy khi còn sống ở trái đất chúng ta buộc phải tham dự những gì trên trời và không chỉ hoàn toàn lưu tâm đến những gì có thể thấy và chạm được qua các giác quan. Sự huyền bí, thế giới bên kia, những sự trên trời, tất cả là một phần của ơn khải huyền đối với một hình ảnh rộng lớn hơn của đức tin và sự hiểu biết của Kitô Giáo. Đó là lý do tại sao tôi cảm thấy đó là một trò đùa khi trong một tác phẩm như sách Khải Huyền, những người theo chủ nghĩa cơ bản (fundamentalist) chỉ tìm kiếm các yếu tố cho lịch sử hiện tại. Họ thường bỏ sót toàn thể chiều kích huyền bí.

24 – Khi trả lời câu hỏi về Sách Khải Huyền, cha dùng đến chữ chủ nghĩa cơ bản. Đây là điều tôi thường gặp khi nói chuyện với những người khác về Kinh Thánh. Ngay cả tôi gặp những người thuộc học phái cơ bản (fundamentalist). Tôi hoàn toàn không rõ chữ này có nghĩa gì.


Như tôi biết, nguyên thuỷ của “fundamentalism” phát xuất từ đầu thế kỷ này, ngay sau năm 1910. Vào lúc đó, dưới ảnh hưởng của sự phê bình kinh thánh – như tôi đã nói nó thường có nghĩa sự phê phán sử học – có một sự mất mát đáng kể về sự tin tưởng tính cách siêu nhiên trong Kinh Thánh. Nói cho cùng, khi có người thắc mắc về các sách trong Kinh Thánh cũng giống như thắc mắc các sách khác, yếu tố lời Chúa có thể trở nên mờ mịt, nhất là khi họ không có sự tin tưởng vững vàng vào nguồn gốc thiêng liêng của Kinh Thánh. Trong hoàn cảnh này, hai vị giầu có ở Nam Cali đã bảo trợ in một loạt các sách mỏng được viết ra để bảo vệ các điều căn bản (fundamentals) của Kitô Giáo, tỉ như sự thụ thai trinh trắng, các phép lạ của Đức Giêsu, sự phục sinh, thiên tính của Đức Kitô, hoả ngục, và một quan điểm về vũ trụ chống với Darwin.

Về quan điểm vũ trụ, trong khi người Công Giáo có cùng những lưu tâm về các căn bản đức tin Kitô Giáo, chúng ta vẫn có thể phân biệt giữa học thuyết về sự tạo dựng và một quan điểm về sự tạo dựng mà nó tẩy chay sự tiến hoá. Điểm sau cùng này không được chúng ta coi như cơ bản của đức tin Kitô Giáo.

Tôi hoan nghênh một số học thuyết được chủ nghĩa cơ bản nhấn mạnh nhưng tôi hoàn toàn bất đồng ý với phương pháp mà họ sử dụng. Theo sự phán đoán của tôi, cách đọc Kinh Thánh theo nghĩa đen thì không thể bào chữa được về trí thức và thật không cần thiết cho sự bảo vệ các học thuyết căn bản Kitô Giáo.

25 – Cha phản ứng thế nào với chủ nghĩa cơ bản Kinh Thánh?


Đây là một đề tài bao la, tôi chỉ có thể sơ phác một số đề nghị.Đừng mất thời giờ tranh luận về bản văn kinh thánh với người cơ bản chủ nghĩa.
Đừng tấn công người cơ bản chủ nghĩa như thể họ khờ dại hay dốt nát. Thông thường, cách đọc kinh thánh theo nghĩa chữ là thái độ tự vệ của ngay cả người có học thức khi họ bị gài bẫy. Họ muốn duy trì đức tin nơi Thiên Chúa, và dường như đây là cách duy nhất. Họ sẽ hiểu việc bạn tấn công họ như tấn công đức tin của họ.
Nếu bạn gặp một người rất tin vào cơ bản chủ nghĩa, hãy cẩn thận đừng tìm cách thay đổi họ quá đột ngột. Hậu quả có thể xảy ra là họ mất đức tin. Mục tiêu quan trọng hơn là đừng tàn phá chủ nghĩa cơ bản, nhưng hãy cung cấp cho họ một đức tin phong phú hơn và trình bầy Kinh Thánh thông minh hơn.
Có những yếu tố phụ trong chủ nghĩa cơ bản làm cho nó hấp dẫn. Người chủ nghĩa cơ bản rất yêu quý tính cách cộng đồng, và họ chăm sóc kỹ những ai tham dự trong nhóm hay giáo phái của họ. Chúng ta phải để ý rằng, với các giáo xứ Công Giáo rộng lớn có hàng ngàn người tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, chúng ta không có cảm nhận về cộng đồng. Có thể chúng ta phải chia thành các nhóm nhỏ. Cộng đồng là một giá trị, và có lẽ chúng ta có thể học được điều này từ người chủ nghĩa cơ bản.
Người chủ nghĩa cơ bản thường rêu rao về tình yêu dành cho Đức Giêsu. Yêu mến Đức Giêsu là một hấp dẫn lớn trong Kitô Giáo. Khi người ta được gặp tình yêu ấy, họ bị xúc động, bị thu hút. Không có lý do gì mà không rêu rao lòng yêu mến Đức Giêsu trong các giáo hội lớn với một cảm nhận thích hợp. Trong Gioan 21, Đức Giêsu đã ba lần đưa câu hỏi, không phải với một người chủ nghĩa cơ bản mà với Phêrô, là “Con có yêu mến Thầy không?” Để chịu chức hay để rao giảng, nếu chúng ta đặt điều kiện đó, cũng như Đức Giêsu đã yêu cầu trước khi giao đàn chiên của Người cho ông Phêrô, có lẽ chúng ta cũng có thể sánh với người chủ nghĩa cơ bản khi giúp dân chúng nhận thức rằng, các công việc hoặc đức tin mà không có lòng mến Chúa Giêsu thì không thể tạo nên bức tranh của toàn thể Hội Thánh.

26 – Cho đến bây giờ, cha đã trả lời nhiều câu hỏi về Kinh Thánh một cách tổng quát với nhiều dính đáng đến Cựu Ước. Tân Ước không khác gì hay sao? Nó được viết xuống, không phải hàng trăm năm sau khi biến cố xảy ra, nhưng hầu như cùng thời. Chắc chắn rằng chúng ta có thể tin vào tính cách lịch sử của nó.


Câu hỏi của bạn nhắc tôi nhớ đến một giáo sư là người dậy tôi trong đại chủng viện. Ông luôn luôn nhấn mạnh rằng bạn chỉ có thể áp dụng sự phê bình theo hình loại (form criticism) với Cựu Ước nhưng không với Tân Ước. Tôi nghĩ ông hiểu phê bình hình loại có nghĩa giảm bớt tính cách lịch sử, trong khi, dĩ nhiên nó có nghĩa chẩn đoán đặc tính văn chương hay thể loại của một cuốn sách nào đó. Cũng như Cựu Ước, Tân Ước cũng là một thư viện, có thể nói, thư viện của Hội Thánh thời tiên khởi. Khi bạn nói rằng chúng ta có thể tin vào tính cách lịch sử của nó, điều đó ám chỉ rằng tất cả hai mươi bẩy cuốn sách đều là lịch sử và, dĩ nhiên, chúng không phải vậy. Người ta khó có thể nói đến tính cách lịch sử của các thị kiến biểu tượng trong sách Khải Huyền.

Nhiều cuốn trong Tân Ước là các thánh thư. Nếu áp dụng phạm vi lịch sử cho các thư này, cũng có những khó khăn. Dĩ nhiên, giả sử rằng tác giả thánh thư không sáng chế ra hoàn cảnh mà ông nói với chính ông; nhưng sự thẩm định lá thư này sẽ thích hợp hơn khi lưu tâm đến phẩm chất của thông điệp hơn là tính cách lịch sử. Vì các thư này cùng thời với các biến cố nó diễn tả, người ta phải đối diện với vấn đề rằng, trong khi một số thư được cho là của T. Phaolô thì không hồ nghi gì, các thư khác có lẽ được viết bởi các môn đệ của thánh nhân, mang tên của người, ngay cả sau khi thánh nhân từ trần. Liên quan đến các lá thư Tân Ước khác được cho là của T. Phêrô, và T. Giacôbê, và T. Giuđa, cũng có khó khăn tương tự. Có lẽ với Tân Ước, người ta không có những khó khăn sâu sắc về tính cách lịch sử như đối với các tường thuật Cựu Ước, nhưng vẫn có những vấn đề trong Tân Ước.

27 – Làm thế nào người tin vào sự linh ứng lại có thể đặt vấn đề tính chất đích thật của các thư Thánh Phaolô? Tân Ước nói rằng T. Phaolô đã viết các thư này.
Có lẽ tôi nên bắt đầu bằng sự phân biệt giữa những gì Tân Ước nói và những gì không nói. Tôi nghe thừa tác viên đọc sách trong nhà thờ mở đầu bằng câu “Bài trích thơ T. Phaolô gửi tín hữu Do Thái”. Nếu người ta nhìn vào Tân Ước, không có chỗ nào viết rõ rằng Thư gửi tín hữu Do Thái là do T. Phaolô viết. Sự nhận biết thư này là được viết “cho tín hữu Do Thái” xảy ra vào thế kỷ thứ hai (không có trong bản văn Kinh Thánh), và sự nhận biết là của T. Phaolô lại càng trễ hơn nữa, và trong một thời gian, chỉ được thấy trong một phần của Hội Thánh. Tương tự, người ta nói về ba lá thư của T. Gioan. Nhưng ngay trong bản văn của các thư này, không có một chút gì nhắc đến T. Gioan; một lần nữa, đây chỉ là sự suy đoán phát xuất từ thế kỷ thứ hai chứ không trong Tân Ước.

Tuy nhiên bạn có lý về các lá thư khác mà chúng đặc biệt nhận biết tác giả. Mười ba cuốn trong Tân Ước là các thư có tên T. Phaolô trong văn bản. Trong mười ba thư này, học giả đồng ý cho rằng bảy lá thư là do chính T. Phaolô sáng tác: I Thessalonica, Galát, I-II Corintô, Philipphê, Philêmon, và Roma, còn các thư khác, phần đông học giả không nghĩ rằng T. Phaolô viết (I-II Timôthê, Titô, Ephêsô, Colossê, II Thessalonica). Tương tự như vậy, trong các thánh thư khác, phần đông các học giả không nghĩ rằng T. Phêrô sáng tác I & II Phêrô; T. Giuđa không viết Thư Giuđa, hoặc T. Giacôbê không viết Thư Giacôbê.

Khi một thánh thư mang tên Phaolô hay Phêrô thì sự linh ứng không bảo đảm rằng chính nhân vật đó viết hay sao? Tuyệt đối không, cũng như sự kiện Môsê được cho rằng đã viết Ngũ Thư thì không bảo đảm là đã viết sách đó. Có sự thoả thuận ngầm về việc gán ghép tác phẩm cho các người có thẩm quyền. Môsê được coi là người đã nhận Mười Điều Răn, và vì thế các văn kiện luật pháp được gán cho Môsê là tác giả. Solomon được biết là một người khôn ngoan, vì vậy sách khôn ngoan được gán cho Solomôn. David được biết là một người hát thánh vịnh, và vì vậy người ta nói về thánh vịnh David tuy rằng một số thánh vịnh rõ ràng không phải do David sáng tác. Tương tự như vậy, sau khi T. Phaolô từ trần và các môn đệ của người, khi phải đối diện với những hoàn cảnh mới, họ vẫn muốn giáo dục dân chúng theo như tâm trạng của Phaolô nên họ được tự do viết dưới bóng áo của người. Như tôi đã nói trước đây, viết là một hành động con người; và sự linh ứng của Thiên Chúa tôn trọng những tục lệ của hành động đó.

28 – Khi cha được hỏi về tính cách lịch sử của Tân Ước, phần lớn câu trả lời của cha về các thư của T. Phaolô và nguồn tác giả. Còn các Phúc Âm thì sao? Chân dung của Đức Giêsu được phác hoạ một cách đáng tin cậy thế nào?


Câu trả lời nói chung là các Phúc Âm không viết về tiểu sử, và một cách tổng quát điều đó đúng. Bình thường, ý định chính của người viết tiểu sử là viết về toàn thể cuộc đời của một nhân vật, ghi nhận tất cả những gì có thể biết về nhân vật ấy. Hai cuốn Phúc Âm (Máccô và Gioan) không cho chúng ta biết gì về nguồn gốc, sự sinh hạ, hay thời thơ ấu của Đức Giêsu trước khi Người gặp ông Gioan Tẩy Giả. T. Máccô còn không đề cập gì đến tên cha nuôi của Đức Giêsu (T. Giuse) và T. Gioan không bao giờ nhắc đến tên mẹ của Người (là Maria – phải, thánh nhân có nói về “mẹ của Đức Giêsu” nhưng không cho biết tên; nếu chúng ta chỉ có phúc âm Gioan, chúng ta không biết đến tên Đức Maria). Những thiếu sót đó tiêu biểu cho số tài liệu tiểu sử còn thiếu rất nhiều trong các Phúc Âm mà lẽ ra phải bao gồm nếu các thánh sử viết về tiểu sử của Đức Giêsu.
Tuy nhiên tôi muốn vạch ra rằng, trong khi một cách tổng quát, các Phúc Âm không phải là loại tiểu sử, Phúc Âm theo T. Luca, vì nó có liên hệ đến Công Vụ Tông Đồ, tường thuật một loại lịch sử lỏng lẻo về Kitô Hữu thời tiên khởi, và vì trong đó có câu chuyện về sự thụ thai, sinh hạ, và thời niên thiếu của Đức Giêsu, cuốn này có hình thức gần với loại tiểu sử hơn các Phúc Âm khác. Ngoài ra, trong khi không có Phúc Âm nào đem cho chúng ta một tường thuật đầy đủ hoặc không thiên vị về cuộc đời Đức Giêsu, mọi Phúc Âm đều có một số dữ kiện lịch sử về những hoàn cảnh của cuộc đời, lời nói, và hành động của Đức Giêsu. Do đó, khi nói rằng các Phúc Âm không phải là loại tiểu sử, điều đó không có nghĩa chúng chỉ có giá trị về thần học – đó là những giải thích về một cuộc đời thực sự, những lời nói có thật, và những hành động có thật.

29 – Cha có thể nói cụ thể hơn được không? Nếu cha nói rằng các Phúc Âm không phải là những tường thuật đúng như vậy về sứ vụ của Đức Giêsu và không phải là loại tiểu sử, thì các sách ấy là gì? Chúng tôi phải hiểu thế nào về các sách ấy?


Câu trả lời của tôi tuy hơi dài nhưng phù hợp với lập trường chính thức của Giáo Hội Công Giáo La Mã. Đầu tiên có ba giai đoạn trong sự hình thành truyền thuyết về Đức Giêsu mà đã dẫn đến các Phúc Âm.

Trong GIAI ĐOẠN MỘT, tiến trình này được bắt đầu với cuộc đời công khai của Đức Giêsu: thời kỳ hoạt động trong vùng Galilê và lân cận, là nơi Người giảng dậy và chữa lành. Đức Giêsu thi hành những điều rất nổi tiếng và rao giảng sứ điệp, vì vậy các môn đệ (nhất là những ai cùng đi với Người, trong số đó sau này được gọi là tông đồ) đã nghe và thấy những gì Người nói và thi hành. Cần nhấn mạnh rằng những lời giảng và hành động của Đức Giêsu là của một người Do Thái ở Galilê sống trong giai đoạn một phần ba đầu của thế kỷ I; kiểu cách Người nói, những khó khăn Người đối phó, các từ vựng và quan điểm là của một người Do Thái ở Galilê vào thời gian đặc biệt đó. Nhiều thất bại để hiểu Đức Giêsu và những áp dụng sai lầm các tư tưởng của Người xuất phát từ sự kiện rằng người ta đưa Người ra khỏi thời gian và không gian và tưởng tượng rằng Người đang đương đầu với những vấn đề mà Người chưa bao giờ gặp.

GIAI ĐOẠN HAI trong sự phát triển truyền thuyết Đức Giêsu mà sau đó hình thành các Phúc Âm bao gồm giai đoạn rao giảng xảy ra sau cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Nếu phải xác định thời gian cho các giai đoạn này, tôi cho là Giai Đoạn Hai thuộc một phần ba thứ hai của thế kỷ I. Những ai đã nghe và thấy Đức Giêsu, nói chung họ chấp nhận Người và được vững tin qua sự phục sinh và tin vào Người dưới nhiều danh hiệu (Mêsia/Kitô, Chúa, Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, v.v.). Khi nói về Người, họ khai triển những gì họ được nghe và thấy dưới ảnh hưởng của đức tin mà họ đang có, nó soi sáng cho họ thấy những điều quan trọng của các biến cố trong quá khứ. Do đó, việc phúc trình không còn là những dữ kiện đơn giản, không thêu dệt mà Chúa Giêsu đã nói và đã làm. Thay vào đó, các phúc trình được đức tin soi sáng mà người rao giảng muốn chia sẻ.

Điều không thể tránh là những người không được nghe và thấy tận mắt Đức Giêsu cũng góp phần rao giảng mà nó độc lập với những gì họ nhận được từ các người chứng nguyên thuỷ, vì vậy sự rao giảng là một tổng hợp các tường thuật của nhân chứng và không phải nhân chứng.

Ngoài sự phong phú hoá bởi đức tin và sự gia nhập của những người không phải là nhân chứng thứ nhất, một yếu tố khác nữa là sự cần thiết phải thay đổi lời rao giảng để phù hợp với một thành phần khán giả mới. Nếu Đức Giêsu là một người Do Thái ở Galilê của phần đầu thế kỷ I, Phúc Âm được rao giảng trong các thành phố cho người Do Thái và Dân Ngoại ở thành phố; sau cùng được rao giảng bằng tiếng Hy Lạp, là một ngôn ngữ mà Đức Giêsu không thường dùng ở Galilê (nếu thực sự Người có dùng). Tất cả điều này ảnh hưởng đến việc chuyển dịch các từ theo nghĩa rộng để làm cho sứ điệp dễ hiểu và sống động cho các khán giả mới khi phát triển truyền thuyết Phúc Âm.

GIAI ĐOẠN BA bao gồm những văn bản thực sự của các Phúc Âm như chúng ta biết. Tôi sẽ định thời gian của giai đoạn này là một phần ba sau cùng của thế kỷ I, với phúc âm Máccô khoảng năm 70, Mátthêu và Luca trong khoảng 80-90, và Gioan trong thập niên 90—tất cả những điều này chỉ là sự xấp xỉ, trước hay sau mười năm. Các phần đoạn về truyền thuyết Đức Giêsu có lẽ đã được viết xuống trước khi các thánh sử hình thành Phúc Âm, nhưng các văn bản tiền-Phúc Âm này không còn được lưu truyền cho chúng ta. Một yếu tố then chốt để hiểu Giai Đoạn Ba là hầu như không một thánh sử nào là nhân chứng về sứ vụ của Đức Giêsu. Tất cả họ là thành phần mà chúng ta có thể gọi là thế hệ Kitô Hữu thứ hai: họ nghe về Đức Giêsu từ người khác và sắp xếp các truyền thuyết họ nhận được thành một cuốn Phúc Âm. Sự hiểu biết này giúp chúng ta tránh khỏi những sai lầm từng làm bối rối một số người truyền giáo vì nghĩ rằng các thánh sử viết lại những gì tai nghe mắt thấy. Tỉ như T. Gioan viết rằng Đức Giêsu thanh tẩy Đền Thờ vào lúc khởi đầu sứ vụ rao giảng trong chương 2, trong khi T. Mátthêu lại cho rằng cuối sứ vụ trong chương 21. Chúng ta không nhất thiết phải phán đoán các Phúc Âm theo thứ tự thời gian. Mỗi thánh sử sắp xếp sự kiện theo sự hiểu biết của mình về Đức Giêsu và muốn trình bầy Đức Giêsu theo phương cách đáp ứng với nhu cầu tinh thần của cộng đoàn mà họ muốn nhắn gửi. Vì vậy cá nhân các thánh sử xuất hiện như các tác giả trọn vẹn về Phúc Âm, họ chia sẻ, khai triển, cắt tỉa truyền thuyết, và như các thần học gia chính thức, họ định hướng truyền thuyết đó theo một mục tiêu nhất định.

Vì vậy để trả lời chung về câu hỏi các Phúc Âm là gì, tôi sẽ diễn tả Phúc Âm như một sự cô đọng từ truyền thuyết về Đức Giêsu, gồm những lời nói, hành động, sự thống khổ, sự chết, và sự phục sinh của Người. Sự cô đọng này được sắp xếp, chọn lọc, và tái định hình bởi một thánh sử sống trong một phần ba sau cùng của thế kỷ I để đáp ứng với nhu cầu tinh thần của độc giả Kitô Hữu mà họ đối diện. Đó là lý do tại sao tài liệu của Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng Rôma, mà từ đó tôi vẽ ra ba giai đoạn, có thể định giá các Phúc Âm có tính cách lịch sử nhưng không như một tường thuật chính xác theo trí nhớ hoặc theo nghĩa đen.

30 – Phương cách tiếp cận hiện đại đối với Phúc Âm là kết quả của việc phát triển truyền thuyết, nó có ảnh hưởng thực tế gì để chúng ta dùng Phúc Âm cho lợi ích tinh thần?


Tôi sẽ trả lời bằng một thí dụ cụ thể. Người ta chỉ cần nhìn đến “Sunday Lectionary” (các bài đọc Cựu và Tân Ước trong lễ Chúa Nhật – [không thấy có trong tiếng Việt - chú thích của dịch giả]), là một tổng hợp các bài đọc mà giờ đây được nhiều giáo phái Kitô Giáo chấp nhận theo nghĩa rộng. Trong Giáo Hội Công Giáo La Mã, trước khi tổng hợp này được giới thiệu, người ta nghe cùng 52 đoạn trong các Chúa Nhật hàng năm. Các đoạn này được trộn lẫn mà không phân biệt từ Phúc Âm nào, bởi thế, trong một Chúa Nhật người ta có thể nghe một đoạn từ Mátthêu, và Chúa Nhật khác từ Luca, nhưng ít khi nghe Máccô. Theo kinh nghiệm của tôi là một linh mục, người ta có thể giảng một đoạn tỉ như dụ ngôn người gieo giống mà không bao giờ nhấn mạnh được trích từ Phúc Âm nào. Đó là vì cả người giảng lẫn khán giả đều có ấn tượng rằng khung cảnh nền tảng Phúc Âm không tạo nên sự khác biệt về ý nghĩa của đoạn này – Đức Giêsu nói bằng dụ ngôn, và các thánh sử chỉ là người tường thuật.

Tuy nhiên, trong Sách Bài Đọc Chúa Nhật, các bài Phúc Âm của năm đầu (A) trích từ Mátthêu, năm kế là từ Máccô (B), và năm thứ ba (C) là từ Luca. Phúc Âm Gioan được đọc trong những thời gian đặc biệt, như mùa Chay và Phục Sinh. Sự xếp đặt đó giúp chúng ta nhận biết tầm quan trọng của tính cách địa phương của đoạn Phúc Âm trích dẫn, bởi vì khung cảnh của toàn thể Phúc Âm tăng thêm ý nghĩa cho đoạn trích. Thí dụ, câu chuyện bánh hoá nhiều xảy ra trong cả bốn Phúc Âm; nhưng mỗi cuốn có thể có ý nghĩa khác nhau tuỳ theo lý luận của thánh sử. Có lẽ không phải mọi người rao giảng đều ý thức điều này; tuy nhiên sự xếp đặt của sách bài đọc khuyến khích họ hãy ý thức điều đó.

31 – Cha nói rằng các thánh sử không phải là nhân chứng. Chúng con được dậy rằng T. Mátthêu và Gioan đã viết các Phúc Âm, và những người này chắc chắn là nhân chứng cho sứ vụ của Đức Giêsu.
Đó là một phản ứng tôi thường thấy nơi người Công Giáo và là một phản ứng dễ hiểu bởi vì chúng tôi được dậy bảo về những nhận biết ấy đúng như vậy, tối thiểu cho đến khoảng 1960. Trong đầu thập niên 1960 Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hội La Mã đưa ra câu trả lời chính thức cho một số câu hỏi được phát sinh nhờ việc phát triển phê bình kinh thánh một cách uyên bác, nhất là trong giới Tin Lành. Uỷ ban cả quyết rằng, về cơ bản, Phúc Âm xuất hiện đầu tiên trong Tân Ước tiêu biểu cho công trình của Mátthêu, một người trong nhóm Mười Hai, và Phúc Âm Thứ Tư là công trình của Gioan, một người trong nhóm Mười Hai.

Tuy nhiên, vào giữa thập niên 1960, vị thư ký của chính uỷ ban này giải thích rằng, giờ đây người Công Giáo có hoàn toàn tự do đối với những sắc lệnh đó, trừ khi họ đụng đến đức tin và luân lý. Điều đó có nghĩa rằng trong khi sự giảng dậy lúc đầu của Công Giáo về căn tính của thánh sử bị ràng buộc bởi một câu trả lời chính thức của giáo hội, điều đó không còn nữa. Bây giờ người Công Giáo được tự do như bất cứ ai để biểu lộ quan điểm của mình về căn tính của các thánh sử. Nhân tiện, có ít nhiều bối rối khi công khai thay đổi một lập trường được củng cố mạnh mẽ, điều đó cho thấy sự nguy hiểm khi viện dẫn thẩm quyền giáo hội để giải quyết những thắc mắc có tính cách khoa học – không phải thắc mắc về học thuyết nhưng về tác giả, ngày tháng, và cách cấu tạo. Đức tin và luân lý là khu vực giới hạn mà trong đó Thần Khí dẫn dắt giáo hội.

Trong giới phê bình kinh thánh hiện nay, có khoảng 95% cho rằng các thánh sử không phải là những người chứng kiến sứ vụ của Đức Giêsu. Sắc lệnh năm 1964 của Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng La Mã đã không đi vào vấn đề căn tính của các thánh sử, tuy nó đã diễn tả rất rõ ràng là họ khác với những người rao giảng trong Giai Đoạn Hai, và vì vậy ngầm tạo ra sự phân biệt giữa thánh sử và người rao giảng, một số người này từng đồng hành với Đức Giêsu. Tuy nhiên tôi phải cảnh giác quý vị rằng giáo hội từng tiếp tục và sẽ tiếp tục dùng sự định danh cổ xưa là “tông đồ và người thời tông đồ” để mô tả tác giả của các Phúc Âm, không phải để giảng dậy rằng họ là những nhân chứng, nhưng để nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa công trình của họ và tính cách tông đồ nhân chứng.

Tôi muốn nói thêm về sự định danh mà quý vị tìm thấy trong Tân Ước, tỉ như “Phúc Âm Theo Thánh Mátthêu” là kết quả của sự nghiên cứu vào cuối thế kỷ thứ hai khi muốn nhận biết tác giả của những cuốn mà không có sự định rõ. Không thánh sử nào cho biết họ là ai. Trong các Phúc Âm, cuốn Phúc Âm Thứ Tư có sự nhận biết một nhân chứng, “người môn đệ mà Đức Giêsu yêu mến,” (Gioan 21:24), nhưng sau đó Phúc Âm này không bao giờ cho biết người môn đệ mà Đức Giêsu yêu mến là ai. Trong thế kỷ đầu tiên, nếu đặt câu hỏi “Phúc Âm này là của ai?”, có lẽ yếu tố then chốt để biết là những gì được viết ở ngay đầu Phúc Âm mà bây giờ chúng ta thường cho là Phúc Âm Theo T. Máccô. Thánh sử đó viết “Khởi đầu Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô.”

32 – Có thể nào chúng ta biết chắc về những lời của Chúa Giêsu đã nói khi Người còn ở thế gian không?


Chúng ta có thể chắc chắn về những lời mà các thánh sử Máccô, Mátthêu, Luca, và Gioan đã viết. Đó là những gì Chúa Thánh Thần linh ứng và những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Khi chúng ta tìm cách ngược trở về xa hơn là những gì được viết trong Phúc Âm để tái xây dựng lại khung cảnh ban đầu, đúng là chúng ta đang thể hiện sự hiếu kỳ; nhưng chúng ta phải nhận thức rằng, trong sự quan phòng, Thiên Chúa không cho chúng ta biết những giai đoạn ban đầu đó. Vì vậy, việc tái xây dựng sẽ luôn luôn trở ngại vì những giới hạn của các dụng cụ nghiên cứu.

Để tôi đưa ra hai nhận xét tích cực để bạn đừng thất vọng vì những trở ngại vừa nói. Nhận xét thứ nhất là những thay đổi nhận thấy trong các Phúc Âm về một lời tuyên bố, cho thấy giá trị đa diện của lời giảng dậy. Lời dậy đã được phát triển trong các phương cách khác nhau chính là vì nó vốn chứa đựng khả năng áp dụng vào những hoàn cảnh khác nhau với sắc thái khác nhau. Tôi so sánh những thay đổi trong bốn Phúc Âm với một viên kim cương rất lớn của bảo tàng viện mà ánh sáng chiếu toả từ mọi mặt, người ta có thể thấy áng sáng của nó từ bất cứ phương diện nào. Những thay đổi mà các thánh sử duy trì, hoặc ngay cả chính họ cổ vũ, là những sự hiểu biết sâu sắc đối với cùng một lời giảng dậy của Đức Giêsu.

Nhận xét tích cực thứ hai là chúng ta hãy nhớ rằng khi Đức Giêsu nói, không phải là ai ai cũng hiểu và cũng tin như nhau. Điều chúng ta có được trong bốn Phúc Âm là một sứ điệp phát xuất từ đức tin và được thay đổi để thích nghi với người nghe. Điều này có thể giúp giải thích rằng tại sao trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần không linh ứng theo từng chữ những lời nói, hành động của Đức Giêsu nhưng đó là sự tinh lọc từ một truyền thống đang phát triển. Sự lập đi lập lại không nhất thiết đưa đến kết quả đức tin. Nhiệm vụ của thánh sử bao gồm việc bảo tồn, thích nghi, giải thích, và sắp đặt theo trật tự mới là một phần giúp cho Phúc Âm trở thành “Tin Mừng”.

33 – Những câu hỏi cho đến nay và câu trả lời của cha đối phó với những gì Đức Giêsu đã nói. Tôi nghĩ còn có sự khó khăn hơn về những gì Đức Giêsu đã làm. Những phép lạ của Đức Giêsu xác thực như thế nào?


Thế giới ngày nay hồ nghi về phép lạ. Học giả nổi tiếng người Đức là Rudolf Bultmann phân loại các phép lạ Phúc Âm là không có tính cách lịch sử theo quy tắc triết lý tổng quát rằng người thời nay không tin vào phép lạ. Tôi và nhiều học giả khác không để cho một câu trả lời có tính cách triết lý lại khống chế một vấn đề lịch sử.

Theo sự phán đoán của tôi, các phép lạ phải được đối phó theo cùng một phương cách như đối với lời nói của Đức Giêsu. Nếu người ta đi vào hậu trường Phúc Âm người ta sẽ tìm thấy chứng cớ Đức Giêsu là người chữa lành cũng xa xưa như chứng cớ Người đã nói các dụ ngôn. Về mặt lâu đời của truyền thống Kitô Giáo, tôi thấy không có lý do gì để bác bỏ những phép lạ trong sứ vụ của Đức Giêsu. Josephus, một sử gia Do Thái, có viết một đoạn nổi tiếng về Đức Giêsu. Trong thập niên 90, ông viết (Antiquities 18.3.3; #63): “[Đức Giêsu] là một người thi hành những việc lạ lùng, một thầy dậy dân chúng mà họ đón nhận chân lý với sự vui thích.” Đối với tôi, hai yếu tố, người thi hành và thầy dậy, là một phần của truyền thống đáng tin cậy.

34 – Cha nói rằng truyền thống tổng quát về phép lạ của Đức Giêsu là một sự hồi tưởng xác thực về lịch sử, nhưng có thể nào chúng ta biết từng trường hợp phép lạ mà Đức Giêsu đã làm không?


Một lần nữa, khi người ta đi ra ngoài các tường thuật Phúc Âm để đến một giai đoạn tiền Phúc Âm, người ta phải cân nhắc chứng cớ. Có phải bạn muốn nói về phép lạ được bảo tồn trong tất cả các Phúc Âm, tỉ như, bánh hoá nhiều, hay bạn muốn nói về một phép lạ chỉ được bảo tồn trong một Phúc Âm mà thôi? Nếu câu trả lời là một Phúc Âm, điều đó không có nghĩa là nó được sáng chế bởi thánh sử hay truyền thống của ông; nhưng nó cho phép một điều khả dĩ là câu chuyện phép lạ này phát xuất từ một sự hiểu biết sau này về Đức Giêsu. Khi các truyền thống đa dạng có cùng một phép lạ, chứng cớ về phép lạ đó hiển nhiên đã có từ một thời điểm ban đầu.

Để tôi đưa một thí dụ để bạn thấy vấn đề mà chúng ta đang đối diện. Trong Máccô 11:14, Đức Giêsu nguyền rủa cây vả; trong 11:20-21, chúng ta biết rằng vào ngày hôm sau, các môn đệ nhìn thấy cây vả ấy bị khô héo. Trong Mátthêu 21:19 chúng ta được bảo rằng khi Đức Giêsu nguyền rủa cây vả, nó khô héo ngay lập tức. Trong hai tường thuật này, bạn nghĩ tường thuật nào dường như thuộc truyền thống xưa hơn, ít được phát triển hơn? Hầu hết các học giả lập tức chọn tường thuật của Máccô bởi vì sự so sánh hoàn cảnh cho thấy Mátthêu có thói quen làm cho phép lạ có vẻ bi thảm và mãnh liệt. Khi tìm về Luca, người ta thấy rằng Luca không có việc nguyền rủa cây vả, nhưng trong 13:6-9 có một dụ ngôn về cây vả mà trong đó ông chủ muốn chặt nó xuống vì ông tìm quả mà không thấy. Người trồng nho nói với ông là hãy đợi cho một năm để sau khi bón phân và chăm sóc mà nó vẫn không ra trái thì mới chặt đi. Những câu chuyện này có âm vang cùng một biến cố trong đời Đức Giêsu không? Nếu có, câu chuyện nào dường như nguyên bản hơn: nguyền rủa cây vả và nó khô héo liền, hoặc dụ ngôn về cây vả với ý định cắt bỏ nếu nó không sinh trái? Những người không tin phép lạ sẽ ngay lập tức chọn dụ ngôn của Luca như nguyên bản hơn. Người khác nhận thấy khuynh hướng của Luca là làm dịu bớt sự nóng giận của Đức Giêsu, họ có thể nghĩ rằng, tốt hơn hãy biến đổi hành động nóng nẩy của Đức Giêsu thành một dụ ngôn. Đây là điều tôi muốn nói, phải nghiên cứu từng câu chuyện phép lạ để thấy giá trị của chính nó và phán đoán truyền thống mà nó kể lại và khuynh hướng của những truyền thống ấy trước khi người ta phán đoán về tính cách lịch sử của từng phép lạ. Cho rằng một phép lạ của Đức Giêsu thì xác thực, điều đó không đòi hỏi người ta phải chấp nhận tính cách lịch sử theo nghĩa đen của mọi phép lạ trong Phúc Âm.

Nhưng, tôi mạnh mẽ cảnh giác đối với sự tân thời hoá phép lạ theo kiểu tự do, tỉ như, giải thích phép lạ bánh hoá nhiều theo kiểu Đức Giêsu đánh động tâm hồn những người hiện diện đến độ họ mở lòng và đem ra các thực phẩm được giấu kín. Điều đó tuyệt đối vô nghĩa: đó không phải là điều Phúc Âm tường thuật, nhưng đúng hơn là một toan tính tránh né điều được tường thuật. Một thí dụ khác giải thích Đức Giêsu, thay vì đi trên mặt nước, thì đi trên chỗ không sâu lắm. Sự giải thích này là về sự nông cạn, chứ không phải nước.

35 – Trong câu trả lời của cha về tính cách lịch sử của cuộc đời Đức Giêsu, tôi nhận thấy cha không nói gì về sự sinh hạ của Người. Cha và những người khác cho rằng câu chuyện sinh hạ không có tính cách lịch sử.
Chắc chắn tôi không bao giờ cho là như thế. Tôi ít khi khẳng định tuyệt đối về tính cách lịch sử vì khó để minh chứng. Tôi sẽ diễn tả vấn đề này là trong hai chương đầu của Mátthêu và của Luca, một số chi tiết không có tính cách lịch sử.

Cần phải nhớ hai dữ kiện có liên hệ đến sự đánh giá đó. Trước hết, đôi khi người ta cho rằng nếu có ai nghi ngờ tính cách lịch sử của các tường thuật sinh hạ thì người đó chống với giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo. Điều đó không đúng. Không có một tuyên bố chính thức nào của Hội Thánh cho rằng các tường thuật sinh hạ có tính cách lịch sử theo nghĩa đen.

Yếu tố thứ hai liên hệ đến lý do tại sao chúng ta có một truyền thống về những gì Đức Giêsu đã nói và làm. Đó là vì những người từng ở với Đức Giêsu, có thể nói, các môn đệ và nhất là Nhóm Mười Hai, họ ở vào vị thế để tường thuật lại những lời nói và hành động của Người. Nhưng không có ai trong các môn đệ hiện diện trong lúc sinh hạ Đức Giêsu, và vì vậy chúng ta không thể cho rằng có chứng cớ của các tông đồ về sự sinh hạ.

36 – Nhưng chúng ta có nhân chứng là Đức Maria và Thánh Giuse về những gì xảy ra khi sinh hạ?


Có thể là như thế, nhưng điều đó không bao giờ được nói trong Tân Ước. Cho tới bây giờ, vì Thánh Giuse không bao giờ xuất hiện trong sứ vụ của Đức Giêsu, chúng ta biết người đã chết vào lúc Đức Giêsu được thanh tẩy bởi ông Gioan. Đức Maria vẫn còn sống trong thời kỳ rao giảng công khai, nhưng người không bao giờ được diễn tả là đã đi theo Đức Giêsu trong những việc chữa lành và rao giảng. Chúng ta không biết Đức Maria có liên hệ gì với các người rao giảng theo truyền thống tông đồ, họ là những người đã bảo tồn truyền thống này. Một số người tưởng tượng rằng Đức Maria đã kể lại câu chuyện sinh hạ; nhưng không có một gợi ý gì trong Tân Ước và, ngay cả, trong các thế kỷ đầu tiên. Khi nhận xét rằng các câu chuyện sinh hạ chỉ là sự hồi tưởng của Đức Maria, điểm khó khăn thực sự là hai câu chuyện trong Mátthêu và Luca thì quá khác biệt đến độ thật khó để tưởng tượng rằng chúng phát xuất từ cùng một người. Các học giả lãng mạn hơn đôi khi gợi ý rằng Thánh Giuse là nguồn gốc của câu chuyện trong Mátthêu và Đức Maria là nguồn gốc câu chuyện trong Luca; nhưng nếu khôi hài một chút, đó có phải là chứng cớ rằng Đức Maria và Thánh Giuse không bao giờ nói chuyện với nhau, bởi vì họ có những hồi tưởng quá khác biệt về cùng những điều xảy ra?

37 – Theo cha, đâu là những khác biệt chủ yếu giữa hai câu chuyện sinh hạ trong Phúc Âm?


Trong câu chuyện của Mátthêu, ông Giuse và bà Maria sống ở Bêlem và có một căn nhà ở đó (2:11). Họ ở Bêlem cho tới khi con trẻ gần được hai tuổi (2:16) và sau khi trốn sang Ai Cập, lý do duy nhất mà các ngài không thể trở về là vì sợ người con của vua Hêrốt. Hậu quả là các ngài đến một thành phố gọi là Nagiarét với ẩn ý rõ ràng rằng họ chưa bao giờ ở đây (2:22-23).
Trong Luca, bà Maria và ông Giuse sống ở Nagiarét và đến Bêlem chỉ vì việc kiểm tra dân số (1:26; 2:4). Sau khi sinh hạ hài nhi, trên đường đi họ dừng chân ở Giêrusalem, sau đó vội vã trở về Nagiarét và sống ở đó (2:39). Trong Luca không thấy nhắc đến gia đình sống ở Bêlem trong gần hai năm sau khi sinh hạ, không đề cập đến cuộc thăm viếng của các đạo sĩ đến Giêrusalem và đến Bêlem, không nhắc đến việc giết hại các trẻ thơ ở Bêlem hoặc cuộc đi trốn sang Ai Cập. Thật vậy, trong tường thuật của Luca, sự trở về cách êm thắm từ Bêlem qua Giêrusalem đến Nagiarét thì không có những biến cố khủng khiếp như vậy và phải trốn sang Ai Cập. Trong tường thuật của Mátthêu thì không nhắc đến vụ kiểm tra dân số và toàn thể bầu khí thì khác với Luca.

Điều chúng ta phải nhìn nhận là trong mỗi câu chuyện kể lại các yếu tố theo kiểu cách riêng thì giống nhau về chức năng. Tỉ như, Mátthêu nói về việc truyền tin cho ông Giuse, trong khi Luca nói về sự truyền tin cho bà Maria; và mỗi việc truyền tin này có chức năng nhận biết hài nhi sẽ sinh ra là Đấng Mêsia và là “Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta” hoặc Con Thiên Chúa. Mátthêu nói sau khi sinh hạ, các đạo sĩ đến thờ lậy Người, trong khi Luca nói các mục đồng là những người đến thờ lậy hài nhi; mỗi cảnh tượng có chức năng cho thấy rằng sự khải hiện của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu phải được đáp trả bằng đức tin và sự ngợi khen, trong Mátthêu đó là Dân Ngoại, và trong Luca đó là người Do Thái.

38 – Nếu hai tường thuật sinh hạ quá khác biệt, tại sao chúng ta không thể cho rằng một câu chuyện có tính cách lịch sử còn câu chuyện kia có tính cách biểu tượng? Tại sao có những hồ nghi về tính cách lịch sử của mỗi câu chuyện?


Một số học giả phản ứng với những khác biệt về tường thuật sinh hạ này bằng cách chọn đúng con đường như bạn đề nghị. Nhất là trong các học giả Công Giáo, ai chọn sự tường thuật có tính cách lịch sử thì thích Luca. Đức Maria là chủ đề chính trong Luca, và phỏng đoán ngài là nguồn gốc của câu chuyện đó. Tôi không nghĩ giải pháp này có thể đơn giản như vậy bởi vì yếu tố lịch sử nêu lên nhiều khó khăn về các biến cố được Luca cũng như Mátthêu diễn tả.

Để tôi đưa ra một số thí du. Cả hai Mátthêu và Luca đều diễn tả các biến cố mà chắc chắn phải có hồ sơ trong phạm vi công cộng. Mátthêu diễn tả về một hiện tượng thiên văn bất thường: một ngôi sao mọc ở phương Đông, dường như đã dẫn dắt các đạo sĩ đến Giêrusalem, sau đó tái xuất hiện và dừng tại nơi Hài Nhi Giêsu sinh hạ ở Bêlem (2:2, 9). Tôi nghiên cứu mọi hồ sơ thiên văn về giai đoạn sinh hạ Đức Giêsu: sao chổi, sự giao hội hành tinh, và sao băng. Hiển nhiên là không có hồ sơ nào về điều được diễn tả trong Mátthêu.

Trong trường hợp kiểm tra dân số của Luca bởi Xêda Augustus trên toàn thế giới khi Quirinô làm tổng trấn xứ Siria (2:1-2), một cuộc kiểm tra được cho rằng được thực hiện khi vua Hêrốt Đại Đế là Vua xứ Giuđê (1:5), chúng ta cũng có khó khăn tương tự. Tôi đã nghiên cứu mọi hồ sơ lịch sử về tổng trấn Quirinô ở Siria và các cuộc kiểm tra của Augustus. Không có một cuộc kiểm tra nào bao gồm toàn thể lãnh thổ dưới quyền Augustus, và một cuộc kiểm tra (xứ Giuđê, không bao gồm Nagiarét!) đã xẩy ra dưới thời Quirinô khoảng mười năm sau cái chết của Hêrốt Đại Đế, và vì vậy, được cho rằng sau khi Đức Giêsu sinh hạ. Như vậy, người ta thấy bối rối khi nghĩ rằng chẳng có thánh sử nào chính xác về các biến cố công cộng. Có lẽ (sau sự phục sinh) sự sinh hạ của Đức Giêsu có liên đới với một số ký ức không chính xác về một hiện tượng mà nó đã xảy ra trong giai đoạn mười năm trước hay sau khi sự sinh hạ.

Để tôi đưa ra một tiêu chuẩn khác về tính cách lịch sử. Người ta mong đợi rằng điều được kể trong thời thơ ấu sẽ phù hợp với điều được kể trong toàn thể Phúc Âm. Theo Mátthêu chương 2, khi các đạo sĩ đến gặp Hêrốt Đại Đế, và khi vua và các thượng tế, luật sĩ biết được sự sinh hạ của Vua dân Do Thái, toàn thể thành Giêrusalem bối rối về biến cố này. Tuy vậy, khi Đức Giêsu xuất hiện nơi công cộng, dường như không ai biết nhiều về Người hoặc mong đợi gì nơi Người (Mt 13:54-56). Đặc biệt, con của Hêrốt, là Hêrốt Antipas, chẳng biết gì về Đức Giêsu (Lc 9:7-9). Theo Luca, bà Êligiabét, mẹ của Gioan Tẩy Giả có bà con với Đức Maria, mẹ của Đức Giêsu và như vậy hai trẻ có quan hệ. Tuy nhiên trong sứ vụ công cộng không thấy có ám chỉ gì rằng Gioan Tẩy Giả là bà con của Đức Giêsu; và trong Gioan 1:33, ông Gioan Tẩy Giả còn nói rõ rằng, “Tôi không biết người ấy.”

Đây không phải là tất cả những khó khăn mà nó đã nêu lên những hồ nghi về tính cách lịch sử của tường thuật thời thơ ấu, tỉ như, phả hệ của Đức Giêsu trong Mátthêu thì không phù hợp với phả hệ trong Luca, và không phúc âm nào mà không có những khó khăn chính yếu. Như vậy thật không dễ để phân loại một tường thuật có tính cách lịch sử và tường thuật kia có tính cách biểu tượng.

39 – Vậy, nếu các câu chuyện sinh hạ không có tính cách lịch sử, chúng có giá trị gì? Chúng có khá hơn các câu chuyện dân gian không?


Xin lỗi tôi phải nói thẳng thừng rằng bạn phải chú ý đến điều tôi nói. Tôi không nói rằng các câu chuyện sinh hạ thì không có tính cách lịch sử. Tôi đưa ra các lý do tại sao các học giả nghĩ rằng một số biến cố được diễn tả trong các câu chuyện đó thì không có tính cách lịch sử. Tôi nghĩ có những chi tiết lịch sử trong các tường thuật sinh hạ, dù rằng cả hai tường thuật của Mátthêu và Luca thì không hoàn toàn có tính cách lịch sử.

Tôi thường nhấn mạnh rằng, ngoài những bất đồng về các vấn đề nào đó, hai thánh sử cũng đồng ý về những điểm có thể coi là quan trọng nhất. Cả hai đều có sự truyền tin về tương lai vĩ đại của hài nhi trước khi sinh hạ. Điều đó có nghĩa cả hai đồng ý về sự chuẩn bị có tính cách quan phòng của Thiên Chúa và, thật vậy, về sự mặc khải. Cả hai đồng ý rằng hài nhi được thành thai mà không có cha người đời – một sự nhìn nhận kinh ngạc cho vấn đề thụ thai trinh trắng. Cả hai đồng ý rằng hài nhi này thuộc Nhà Đavít qua tính cách kế thừa của ông Giuse, vả cả hai đồng ý rằng sự sinh hạ xảy ra trong thành Bêlem. Cả hai đồng ý rằng sau cùng thánh gia đã định cư tại Nagiarét. Đây là những đồng ý rất quan trọng, và tôi coi đó có thể làm thành tính cách lịch sử của các chi tiết ấy.

Tôi còn thấy rằng một cái nhìn thiển cận về tính cách lịch sử có thể làm người ta không thấy được giá trị lớn lao của chính các câu chuyện. Tường thuật thời thơ ấu của Mátthêu là một “bài giáo lý” rất cẩn thận về sứ điệp căn bản của Sách Thánh Israel mà chúng ta gọi là Cựu Ước. Trong phần phả hệ chúng ta có các câu chuyện của các tổ phụ và các vua được gợi nhớ bằng cách nhắc đến tên của họ, vì vậy chúng ta được nhắc nhở rằng Đức Giêsu là người thừa hưởng các đức tính có liên hệ đến Abraham, Isaac, Jacob, David, Solomon, v.v.. Câu chuyện của Thánh Giuse với giấc mộng và hành trình sang Ai Cập gợi lại tường thuật về ông Giuse trong Cựu Ước; ngay cả vua Hêrốt độc ác giết hại các trẻ thơ cũng gợi lại câu chuyện của Pharaoh ở Ai Cập muốn giết Môsê. Nói tóm lại, điều mà Mátthêu đang thi hành là kể lại câu chuyện của Israel bởi vì đó là một dẫn nhập căn bản cho Phúc Âm và thật thích hợp để mở đầu cho phần thanh tẩy của Đức Giêsu bởi ông Gioan Tẩy Giả.

Tôi thấy một sứ điệp tương tự trong tường thuật thời thơ ấu của Luca, được thực hiện một cách tao nhã nghệ thuật và quân bình hơn về chi tiết. Có một sự tương đương giữa phần loan báo về sự sinh hạ của Gioan và sự truyền tin của Đức Giêsu khi hai bà mẹ gặp nhau. Điều này được theo sau bởi một sự tương đương khác giữa sự sinh hạ và cắt bì của Gioan Tẩy Giả, được chào đón bằng một bài thánh ca, và sự giáng trần, cắt bì, và dâng tiến hài nhi Giêsu, được chào đón bằng một bài thánh ca. Các động lực Cựu Ước trong Luca thì tế nhị hơn trong Mátthêu, chỉ có những ai biết Kinh Thánh thì sẽ nhận thấy rằng hoàn cảnh của ông Giacaria và bà Êligiabét thì rất giống như của ông Abraham và bà Sara (quá lớn tuổi và quá cằn cỗi để có con). Trong Luca 1:18, ông Giacaria nói cùng những lời như ông Abraham nói trong St 15:8. Việc dâng hài nhi Giêsu trong Đền Thờ trước sự hiện diện của cụ Simêon rất giống với việc dâng Samuen trong Đền Thờ trước tư tế Êli già nua, ngay cả bài thánh ca của Đức Maria (Magnificat) rất giống với bài thánh ca của bà Hanna, mẹ của Samuen (I Sam 2:1-10). Như thế, bởi một loại xếp chồng lên nhau, cả hai thánh sử nói với chúng ta về các khung cảnh và nhân vật Cựu Ước là những người chuẩn bị cho Đức Giêsu.

Tôi cũng muốn vạch rõ rằng mỗi một tường thuật thời thơ ấu là một tiên báo về Phúc Âm và sự loan truyền. Trong mỗi tường thuật, sứ điệp căn bản được thiên thần thông báo, đó là Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Trong mỗi tường thuật, sứ điệp này được đón nhận với sự vâng phục, bởi ông Giuse trong Mátthêu và bởi Đức Maria trong Luca. Trong mỗi tường thuật, có những người đến và thờ lậy (các đạo sĩ trong Mátthêu, các mục đồng trong Muca) là một dấu chỉ rằng phúc âm sẽ được đón nhận. Trong mỗi tường thuật còn có sự tẩy chay (bởi Hêrốt, các thượng tế, và luật sĩ trong Mátthêu; và được ám chỉ trong Luca 2:34: “Trẻ này sẽ là cớ cho sự vấp ngã và chỗi dậy của nhiều người trong Israel”.) Các tường thuật thời thơ ấu chỉ được xem xét cách thích hợp khi chúng ta nhấn mạnh nội dung, nền tảng Cựu Ước và các đặc tính kitô của Đức Giêsu. Như vậy, phương cách tiếp cận hiện đại tránh được yếu tố thần tiên đưa đến các thắc mắc cũng như hình ảnh hài nhi quá đa cảm.


40 – Trong câu trả lời cha có nhắc đến các thiên thần báo tin cho T. Giuse và Đức Maria. Chúng ta có phải nghiêm trọng để ý đến vấn đề đó không? Có thiên thần không?


Với ma quỷ cũng như với thiên thần, người ta phải phân biệt chứng cớ trong tư duy của Israel trước thời kỳ lưu đầy Babylon (587 – 539 B.C.) và sau thời kỳ này. Thời kỳ tiền lưu đầy, người Do Thái nghĩ rằng Thiên Chúa có một triều đình trên trời, được bao quanh bởi những người được gọi là “con Thiên Chúa”, là những người tương tự như thiên thần, sự nhấn mạnh quan trọng nhất là ở “thiên thần của Đức Chúa”. Đây không thực sự là một hữu thể tách biệt nhưng là một đại diện hữu hình cho sự hiện diện của Thiên Chúa ở trần thế. Như vậy trong sự gặp gỡ giữa ông Môsê và Thiên Chúa trên núi Sinai trong XH 3, lần đầu tiên chúng ta biết về thiên thần của Đức Chúa hiện ra với ông trong một bụi gai bốc lửa nhưng ngay sau đó Đức Chúa ở đó và lên tiếng nói. Sau thời kỳ lưu đầy, có sự phát triển trong tư duy Do Thái về thiên thần là những hữu thể thực sự tách biệt và được đặt tên. Trong Cựu Ước là Michael, Raphael, và Gabriel.

Thật thú vị khi thấy sự âm vang của lịch sử này trong hai tường thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu trong Phúc Âm. Trong Mátthêu, đó là khi thiên thần của Đức Chúa hiện ra trong giấc mơ với ông Giuse trong nhiều trường hợp và nói cho ông biết về sứ điệp của Thiên Chúa. Mátthêu dùng ngôn ngữ Cựu Ước cho sự khải hiện của Thiên Chúa, dù rằng vào thời gian này, chúng ta có thể hồ nghi rằng Mátthêu nghĩ về một thiên thần thực sự hơn là chỉ dùng “thiên thần của Đức Chúa” để diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa. Luca, ngược lại, cho chúng ta biết thiên thần Gabriel là sứ giả của Thiên Chúa; và không hồ nghi rằng Luca nghĩ về một thiên thần cá biệt. Vì Gabriel là một thiên thần được thấy trong Sách Daniel để giải thích về thị kiến tận thế, sự hiện diện của thiên thần này trong tường thuật thời thơ ấu của Luca là một dấu chỉ rằng những gì Daniel tiên báo thì giờ đây đang được ứng nghiệm – thời kỳ tận thế đã đến trong sự thụ thai và sinh hạ Đức Giêsu.

Bạn hỏi tôi là thiên thần có thật hay không, và câu trả lời của tôi thì tương tự như câu trả lời cho câu hỏi là ma quỷ có thật hay không. Nói tóm tắt, không cách chi chứng tỏ là không có; Đức Giêsu và các tác giả Tân Ước hiển nhiên nghĩ là có và đó là quan điểm của giáo hội từ đó đến giờ; thường được nghĩ rằng giáo hội từng dậy bảo không sai lầm về sự hiện diện của thiên thần và chức năng bảo vệ của các thiên thần; và trong bậc thang hữu thể, kéo dài từ Thiên Chúa toàn năng xuống đến tạo vật ít quan trọng nhất, các thiên thần có thể tìm thấy một vị trí hợp lý giữa Thiên Chúa và loài người. Do đó tôi thấy có lý do chính đáng để tin rằng có các thiên thần và không có lý do gì để từ chối sự hiện diện của họ.

41 – Trong sự đề cập đến phần đầu của phúc âm Mátthêu và Luca, cha nói về thời thơ ấu hay câu chuyện sinh hạ của Đức Giêsu. Và trong Luca có câu chuyện về Đức Giêsu khi lên 12 tuổi. Chúng ta biết gì về thời niên thiếu của Đức Giêsu?


Thành thật mà nói, rất ít. Tôi không muốn đi vào sự phân tích phức tạp của câu chuyện đó trong Luca, nhưng nếu người ta nghiên cứu kỹ lưỡng, nó hầu như độc lập với tất cả những gì được biết trước đó. Phản ứng của Đức Maria trước câu nói của Đức Giêsu và sự ngạc nhiên của người là điều khó hiểu so với những gì đã được tiết lộ cho Đức Maria trước đây, nhưng nó sẽ thật dễ hiểu nếu câu chuyện của Đức Giêsu khi 12 tuổi là câu chuyện độc lập.

Tuy nhiên, tôi không muốn làm bạn hoang mang với quá nhiều dữ kiện, để tôi chú ý đến chức năng của câu chuyện của Luca. Trong chương đầu của Luca, một thiên thần nói với Đức Maria và độc giả rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Trong chương ba của Luca, trong khi Đức Giêsu chịu thanh tẩy tiếng của Thiên Chúa nói với độc giả rằng Người là Con Thiên Chúa. Trong chương hai, chính trong câu chuyện Đức Giêsu khi 12 tuổi, lần đầu tiên Người nói trong Phúc Âm, chính Đức Giêsu nhận diện Thiên Chúa là Cha của mình: “Mẹ không biết rằng con phải ở trong nhà của Cha con hay sao?” Do đó chức năng của câu chuyện thì có tính cách kitô học: Đức Giêsu trong sứ vụ là người nói và hành động như Con Thiên Chúa thì cũng đã nói và đã hành động như Con Thiên Chúa ngay từ lần đầu tiên người xuất hiện trong khung cảnh.

Tương tự, trong các nguỵ phúc âm về thời niên thiếu của Đức Giêsu, có một hồi tưởng về hành động uy quyền và lời nói phản ảnh sự tự ý thức. Một cách kiên định, ý định thầm kín là cho thấy sự liên tục trong suốt cuộc đời Đức Giêsu. Ngay khi ở trong gia đình, Người đã có cùng một kiến thức và quyền năng mà Người thể hiện trong sứ vụ. Thật vậy, ngay cả sự chống đối Người cũng đã gặp. Có lẽ bạn đã nghe câu chuyện từ Infancy Gospel of Thomas về Đức Giêsu khi là thiếu niên nặn các con chim bằng đất và chúng bay đi. Điều không thường được nhớ đến trong câu chuyện đó là một vài người Do Thái trông thấy và than phiền với T. Giuse là Đức Giêsu đã làm việc với đất sét trong ngày Sabát – cùng loại chống đối Đức Giêsu khi Người rao giảng công khai. Do đó chức năng của một vài câu chuyện thời niên thiếu của Đức Giêsu thỉ có tính cách thần học hơn là lịch sử.

42 – Trong những câu chuyện về sự sinh hạ và niên thiếu của Đức Giêsu, Đức Maria đóng một vai trò. Đức Maria thì quan trọng thế nào trong kinh thánh?


Để trả lời câu này, người ta phải phân biệt các Phúc Âm. Đức Maria được nhắc đến trong bốn Phúc Âm và phần đầu của Công Vụ Tông Đồ (CVTĐ). Trong phúc âm mà các học giả cho rằng có sớm nhất, là Máccô, Đức Maria chỉ xuất hiện có một lần trong sứ vụ của Đức Giêsu. Trong chương 3:31-35, và vì thế rất sớm trong câu chuyện của Máccô, Đức Maria và các anh em của Đức Giêsu đến tìm Người, dường như để đưa Người về nhà vì họ bàng hoàng về kiểu cách mới mẻ về đời sống và sự giảng dậy của Người (x. 3:21). Sự hiện diện của họ khiến Đức Giêsu lên tiếng hỏi các môn đệ ai là người trong gia đình của Người – có thể nói, gia đình của Người có liên hệ đến công việc công bố vương quốc Thiên Chúa. Đức Giêsu nói rõ ràng rằng bất cứ ai thi hành thánh ý của Thiên Chúa thì đều là anh chị em và mẹ của Người: Nói cách khác, gia đình tự nhiên bởi sự sinh hạ thì không tự động, nhưng là một gia đình được tạo thành bởi tinh thần môn đệ. Đó là một trong những vấn đề căn bản nhất có liên hệ với mẹ (và anh em) của Đức Giêsu trong Tân Ước.

Trong Mátthêu, khung cảnh ở Máccô được lập lại; nhưng hình ảnh tổng quát của Đức Maria được dịu nhẹ bởi sự biểu thị của thánh sử trong chương 1 khi Đức Maria thụ thai Đức Giêsu không bởi một người cha thế gian nhưng bởi Chúa Thánh Thần. Do đó, không hồ nghi rằng Mátthêu trình bầy một quan điểm tích cực về Đức Maria, dù rằng hình ảnh đó không bao giờ thấy rõ trong những trang về sứ vụ của Đức Giêsu trong bất cứ chi tiết nào.

Trong Luca, có một sự khai triển lớn lao về vai trò của Đức Maria. Trong câu chuyện thơ ấu của Mátthêu, Đức Maria chỉ là một nhân vật ở hậu trường, nhưng trong câu chuyện của Luca, người là diễn viên chính. Và Luca giải quyết sự căng thẳng giữa một gia đình được tạo thành bởi tinh thần môn đệ và gia đình tự nhiên của Đức Giêsu bởi sự sinh hạ. Thánh sử thi hành điều này trong tường thuật về truyền tin khi Đức Maria nghe tiếng nói của Thiên Chúa từ một thiên thần và trả lời “Hãy thể hiện điều ấy cho tôi theo như lời ngài” (Luca 1:38). Như vậy, nếu một môn đệ là người nghe lời Chúa và thực hành, Đức Maria trở nên môn đệ Kitô Giáo đầu tiên bởi vì Đức Maria là người đầu tiên nghe lời Chúa và hoàn toàn đồng ý để điều đó được thực hiện. Thật vậy, Luca còn đi xa hơn nữa bằng cách để Đức Maria khởi sự loan truyền tin mừng trong Magnificat (1:46-55). Hiển nhiên Luca cho rằng Đức Maria là người được Thiên Chúa quý mến và được chúc phúc trong mọi người nữ. Trong 2:19, 51 chúng ta được nghe về kế hoạch bí ẩn của Thiên Chúa nơi Con của người, Đức Maria đã ghi nhớ tất cả những điều này trong tâm hồn – một sự diễn tả để chuẩn bị chúng ta về vai trò của Đức Maria trong cuộc đời sau này của Đức Giêsu.

Trong khi Luca vẫn giữ khung cảnh căn bản của Máccô về người mẹ và anh em đến tìm Đức Giêsu, thánh sử đã lấy đi mọi tương phản giữa gia đình tự nhiên và gia đình môn đệ (9:19-21). Việc lấy đi sự tương phản này thì hoà hợp với quan điểm rằng Luca coi gia đình tự nhiên đã là các môn đệ. Điều này cũng giải thích tại sao ngay phần đầu sách Công Vụ Tông Đồ, thánh sử bao gồm Đức Maria và các anh em của Đức Giêsu, cùng với nhóm Mười Hai và các phụ nữ, trong một nhóm quy tụ ở Giêrusalem để chờ đợi Thần Khí tuôn đổ trong ngày lễ Ngũ Tuần. Ngay từ đầu cho đến cuối, trong tường thuật Luca, Đức Maria là một môn đệ phục tùng.

Trong Gioan, trong khi có những sự kiện khác với Luca, cũng có cùng một phong thái. Trong Gioan, mẹ của Đức Giêsu xuất hiện trong hai khung cảnh. Ở khởi đầu sứ vụ ở Cana, tường thuật ám chỉ rằng chủ nhà không còn rượu, sự yêu cầu của người đối với Đức Giêsu, lúc đầu được đáp trả bằng một sự từ chối, điều đó nhắc nhở độc giả rằng hành động của Đức Giêsu thì được kiểm soát không bởi nhu cầu của gia đình nhưng bởi thời giờ được Chúa Cha ra lệnh (“Giờ của tôi chưa đến”; 2:4). Tuy nhiên khi mẹ của Đức Giêsu nhượng bộ Người (“Hãy thi hành bất cứ gì người bảo”), thì sau đó Đức Giêsu thi hành dấu lạ là thay đổi nước thành rượu, một dấu chỉ rằng công việc mà Chúa Cha ban cho Người là đem một sự ban phát mới của Thiên Chúa cho thế gian.

Khung cảnh thứ hai mà mẹ Đức Giêsu xuất hiện là dưới chân thánh giá. Chỉ có Gioan cho biết sự hiện diện của những người bạn của Đức Giêsu dưới chân thánh giá, và quả thật thánh sử chú ý đến hai nhân vật mà người không cho biết tên, có thể nói, người môn đệ mà Đức Giêsu yêu mến và mẹ của Đức Giêsu. Hai nhân vật này là dấu hiệu quan trọng trong Phúc Âm IV. Người môn đệ Đức Giêsu yêu mến là người môn đệ lý tưởng luôn luôn trung thành, ngay cả khi Đức Giêsu trên thập giá; và người môn đệ này được trao cho mẹ của Đức Giêsu như một người con. Như thế vấn đề gia đình trở lại một lần nữa. Gia đình thực sự mà Đức Giêsu để lại dưới chân thập giá và Người trao Thần Khí khi từ trần, thì được tạo thành bởi mẹ Người (gia đình tự nhiên) và người môn đệ yêu dấu (gia đình môn đệ), và bây giờ hai trở nên một khi người môn đệ trở nên em của Đức Giêsu, và mẹ của Đức Giêsu trở nên mẹ của người môn đệ.

Như vậy, tuy sự kiện trong Phúc Âm thì giới hạn, Phúc Âm sau cùng này hiển nhiên nói rằng vào cuối thế kỷ thứ nhất một vai trò đáng kể trong tinh thần môn đệ Kitô Giáo được gán cho mẹ của Đức Giêsu trong nhiều phần của Hội Thánh Tiên Khởi. Trong một cuốn sách đại kết do các học giả Công Giáo và Tin Lành cùng thực hiện, Mary in the New Testament (New York: Paulist, 1978), chúng tôi nói trong cùng một quỹ đạo ngôn ngữ. Quỹ đạo của vai trò Đức Maria gia tăng theo thứ tự thời gian trong các phần của Tân Ước và tiếp tục trong hội thánh tiếp đó cho đến khi Đức Maria được tuyên xưng là người tuyệt hảo nhất của mọi Kitô Hữu. Có lẽ một số anh chị em Tin Lành do dự trước những phát triển sau này về Thánh Mẫu học, nhưng tối thiểu phương cách tiếp cận qua quỹ đạo này cho thấy rằng những phát triển về sau thì không phải là không liên hệ đến Tân Ước.

43 – Trong những phát triển sau này về Thánh Mẫu học mà cha mới nhắc đến là Vô Nhiễm Nguyên Tội và Hồn Xác Lên Trời. Cha có thể nối kết những điều đó với Tân Ước không?


Tôi nghĩ rằng các học thuyết đó có thể liên hệ đến Tân Ước, nhưng không theo kiểu cách đơn giản. Trong sự hiểu biết của tôi, không nhất thiết là mọi người trong thế kỷ thứ nhất có thể diễn đạt ý tưởng là Đức Maria được thụ thai mà không vướng tội. Tôi cũng không cách chi biết rằng những người trong thế kỷ thứ nhất sẽ nhận biết rằng Đức Maria được đưa lên trời cả xác (có lẽ sau khi chết). Tuy nhiên, với phương cách quỹ đạo, người ta có thể cho thấy sự liên hệ giữa tình trạng đặc ân hiển nhiên của Đức Maria và vai trò môn đệ được ban cho người rất rõ ràng trong những phần của Tân Ước.

Tôi sẽ trưng dẫn điều này với từng học thuyết. Học thuyết Vô Nhiễm Nguyên Tội trao cho Đức Maria địa vị đứng đầu để lãnh nhận đặc ân mà mọi môn đệ Đức Giêsu đều được. Trong đức tin Kitô Giáo, qua bí tích rửa tội chúng ta được giải thoát khỏi tội tổ tông. Người Công Giáo chúng ta tin rằng Đức Maria được thụ thai trong lòng mẹ mà không mắc tội nguyên tổ - là một sự chuẩn bị của Thiên Chúa cho sự tinh tuyền của Đức Giêsu là người sẽ thành thai trong lòng Đức Maria. Nếu Luca miêu tả Đức Maria như môn đệ đầu tiên, sự Vô Nhiễm Nguyên Tội nói rằng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã được ban trước cho Đức Maria ngay từ lúc thành thai. Đức Maria là người đầu tiên được hưởng kết quả của ơn cứu độ. Món quà sạch tội tổ tông là một món quà cho mọi môn đệ, nhưng người môn đệ đầu tiên đã được nhận trước hết.

Về học thuyết Hồn Xác Lên Trời, nếu được hiểu rằng Đức Maria được đưa lên trời cả hồn lẫn xác sau khi chết, thì một lần nữa, Đức Maria là người đầu tiên được nhận một đặc ân mà sau cùng sẽ được ban cho mọi Kitô Hữu. Tất cả những ai tin vào Chúa Kitô thì sẽ được nâng dậy khỏi sự chết và được lên trời cả hồn lẫn xác; sự giải thoát khỏi cái chết là một kết quả của ơn cứu độ được ban cho các môn đệ của Đức Giêsu. Cho đến bây giờ, chỉ có Đức Maria, người môn đệ đầu tiên, được hưởng ơn ấy, nhưng sau cùng kết quả ấy sẽ được ban cho tất cả các môn đệ.

Điều tôi vừa nói không thể giải thích hết những đặc ân của Đức Maria hoặc ngay cả những gì liên hệ đến Vô Nhiễm Nguyên Tội và Hồn Xác Lên Trời; nhưng hiển nhiên nó đưa hai học thuyết này vào quỹ đạo của tinh thần môn đệ. Tôi nghĩ điều đó giúp ích cho sự đại kết bởi vì nó cho thấy rằng, dù ban cho Đức Maria sự phong phú của Thiên Chúa, sự phong phú đó vẫn trong lãnh vực môn đệ và sự cứu chuộc của Đức Giêsu. Nói đơn giản, nó giải thoát người Tin Lành khỏi sự sợ hãi rằng vì kính mến Đức Maria, người Công Giáo đang thần thánh hoá người. Chúng ta đang nhận thức rằng ơn sủng được Thiên Chúa ban cho các môn đệ của Con Chúa, trong đó Đức Maria là gương mẫu đầu tiên. Phương cách tiếp cận này còn cho thấy rằng chúng ta đang suy nghĩ về Đức Maria theo giới hạn kinh thánh của một người nữ được chúc phúc đặc biệt trong những người nữ, là người đầu tiên nói rằng, “Hãy thể hiện điều đó nơi tôi theo như lời ngài nói.”

44 – Những đặc ân của Đức Maria mà cha vừa nói thì không được rõ ràng nhắc đến trong Kinh Thánh. Còn đặc ân được rõ ràng nhắc đến trong Mátthêu và Luca, có thể nói, là sự sinh hạ đồng trinh thì sao?


Tôi coi đây là một câu hỏi rất quan trọng cần phải thận trọng khi đi vào chi tiết. Tôi muốn mở đầu bằng cách nói rằng tôi thích nói về biến cố trong kinh thánh như sự thụ thai trong trắng hơn là sự sinh hạ đồng trinh. Điều mà Kinh Thánh diễn tả là Đức Maria thụ thai Đức Giêsu mà không bởi một người cha trần gian. Sau này trong tư duy Kitô Giáo (thế kỷ thứ hai) có một quan điểm được thêm vào là Đức Maria sinh Đức Giêsu theo một phương cách lạ lùng mà vẫn giữ được sự toàn vẹn của các cơ quan thân thể của người. Để tránh lẫn lộn với điều đó tôi muốn chính xác nói về sự thụ thai trong trắng.

Tôi muốn nhấn mạnh rằng ngay từ lúc đầu tiên khi tôi nói chuyện về đề tài này vào lúc đầu thập niên 1970 và nhiều bài viết sau đó, kể cả các cuốn sách, lập trường của tôi thì không thay đổi và rõ ràng khẳng định: tôi chấp nhận sự thụ thai trong trắng, nhưng chính yếu là vì giáo hội dậy như vậy. Có nhiều học giả, Tin Lành và một số Công Giáo, họ từ chối sự thụ thai trong trắng dựa trên nền tảng Kinh Thánh; tôi bất đồng ý với họ, vì tôi đồng ý rằng chứng cớ kinh thánh thì không trái với tính cách lịch sử của sự thụ thai trong trắng. Nhưng tôi thú nhận rằng người ta không thể chứng minh sự thụ thai trinh trắng dựa trên chứng cớ kinh thánh, và đó là lý do tôi cầu viện đến học thuyết giáo hội để giải quyết sự mơ hồ từ những tường thuật trong Kinh Thánh. Sau khi khẳng định như vậy, bây giờ tôi sẽ giải thích hoàn cảnh đưa đến sự chia rẽ giữa các học giả.
Sự thụ thai hài nhi Giêsu chỉ được nhắc đến bởi Luca và Mátthêu; và không hồ nghi rằng, đối với hai vị này, sự thụ thai qua Chúa Thánh Thần trong lòng Đức Trinh Nữ Maria thì mang ý nghĩa thần học, bao gồm quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa và sự độc đáo của giây phút mà Đấng Mêsia được sai đến. Nhưng ngoài ra còn một vấn đề lịch sử: Có phải trẻ này được thụ thai mà không có sự can dự của một người cha trần thế không? Một số người từ chối tính cách lịch sử của sự thu thai trong trắng, trả lời “không” với câu hỏi đó, họ nói như vậy là vì nghĩ rằng Thiên Chúa và phép lạ thì không có nghĩa gì. Những người khác, họ từ chối tính cách lịch sử của sự thụ thai trong trắng và tin có Thiên Chúa và phép lạ, nhưng họ nghĩ rằng trong sự kiện này, sự tường thuật thì hoàn toàn có tính cách biểu tượng: “Sinh bởi một trinh nữ”, đối với họ không có nghĩa sinh ra mà không có người cha trần thế, nhưng sinh ra với sự giúp đỡ của Chúa Cha. Đặc biệt, trong cuộc đối thoại với nhóm học giả sau này, tôi nhấn mạnh rằng cả Mátthêu và Luca đều hiểu và nói rõ sự thụ thai trong trắng là một sự kiện (cũng như có tính cách thần học) và không chỉ có tính cách biểu tượng. Như vậy, một phần trả lời cho bạn, tôi mãnh mẽ xác nhận rằng hai thánh sử viết về sự thụ thai trong trắng thì muốn nói như vậy theo nghĩa chữ, dù họ thấy điều đó trong ý nghĩa thần học. Vấn đề là những điều đó có chính xác theo sự phán đoán của lịch sử hay không.

45 – Tôi nhận thấy rằng khi diễn tả vai trò của Đức Maria trong Phúc Âm, cha nói đến mẹ và “anh em” của Đức Giêsu. Đó không phải là ngôn ngữ Tin Lành hay sao?


Để thảo luận về chữ “anh em”, có lẽ sẽ hữu ích để bắt đầu bằng sự thảo luận về những người nằm trong sự định danh đó, và cho đến nay nổi tiếng nhất là một người có tên Giacôbê. Trong Tân Ước có một vài Giacôbê. Trong danh sách nhóm Mười Hai mà Đức Giêsu chọn, có ông Giacôbê, em của ông Gioan là con của ông Zebedee, cũng như Giacôbê “của Alphaeus” (có lẽ con của Alphaeus). Tuy nhiên, Giacôbê trong vấn đề này thì không phải là một phần tử của nhóm Mười Hai, nhưng là một người mà T. Phaolô đề cập đến như “người anh em của Chúa” (Gal 1:19). Máccô 6:3 và Matthêu 13:55 coi ông này thuộc trong bốn “anh em” của Đức Giêsu: Giacôbê, Giuse, Simon, và Giuđa. Là người lãnh đạo Kitô Hữu ở Giêrusalem, Giacôbê này là một trong những người quan trọng nhất của giáo hội thời tiên khởi. Ông được gán cho là tác giả của “Thư Thánh Giacôbê” trong Tân Ước. Tôi nghĩ là phải nhắc đến một điều rằng, Kitô Hữu sau này, khi đơn giản hoá, họ giả sử rằng hai “anh em”, Giacôbê và Giuđa, thì giống với hai người trong Mười Hai Tông Đồ là người có cùng tên. Điều đó sai; CVTĐ 1:13-14 tách biệt giữa nhóm Mười Hai và các “anh em.”

Như vậy một vài thánh sử Tân Ước đề cập đến “anh em” của Đức Giêsu, họ sử dụng chữ Hy Lạp thường dùng cho anh em; và Máccô/Mátthêu sau đó có nói đến “chị em” của Đức Giêsu. Kiểu dịch Công Giáo tìm cách vượt qua chữ “brothers” bằng cách dùng chữ “brethren” tuy rằng đó chỉ là danh từ cổ số nhiều của “brothers”, và không thể nào dùng chữ “sistren.” Chúng ta phải chịu bị kẹt với kiểu dịch nghĩa đen của tiếng Hy Lạp và đừng tìm cách cắt bỏ hay thay đổi vì nó nêu lên vấn đề. Và như vậy, để trả lời câu hỏi của bạn, “anh em của Đức Giêsu” thì không phải là ngôn ngữ Tin Lành nhưng ngôn ngữ kinh thánh.

46 – Còn giáo huấn Công Giáo về Đức Maria vẫn giữ đồng trinh thì sao?


Nhiều khi điều được diễn tả là giáo huấn “Công Giáo”, nhưng nó chỉ là quan điểm của nhiều người. Các Giáo Hội Chính Thống và Đông Phương, cũng như nhiều người Anh Giáo, có cùng quan điểm rằng Đức Maria vẫn là một trinh nữ. Trong khi người Tin Lành thường nghĩ rằng các anh chị em của Đức Giêsu được nhắc đến trong Tân Ước là con của Đức Maria, và vì vậy người không còn là một trinh nữ, đó không phải là vấn đề chính vào thời Cải Cách. Tôi nhớ rằng Luther, Calvin, và Zwingli, tất cả đều dùng chữ “Đức Trinh Nữ” mà không phản đối. Hiển nhiên, sự tranh luận thời nay phát sinh từ việc đọc Kinh Thánh theo nghĩa chữ.

Một phân biệt khác theo sau. Hiển nhiên, nếu những người mà Kinh Thánh gọi là anh chị em của Đức Giêsu là anh chị em ruột của Người thì Đức Maria không còn là trinh nữ. Nhưng nếu họ không phải là anh chị em ruột của Đức Giêsu, điều đó không thực sự xác định rằng Đức Maria vẫn là một trinh nữ. Sự trinh tiết kéo dài của Đức Maria là một điều gì đó vượt lên trên sự chứng thực của bất cứ tài liệu nào hiện có và tượng trưng cho sự ca tụng Đức Maria mà điều đó phát xuất từ đức tin. Người Công Giáo chúng ta coi đó là một học thuyết của giáo hội, nhưng điều đó không nhất thiết có nghĩa rằng Đức Maria nói với mọi người rằng người luôn luôn là một trinh nữ. Chúng ta chấp nhận học thuyết “Đức Trinh Nữ” này không dựa trên văn bản kinh thánh, nhưng từ sự suy nghĩ về sự thánh thiện của Đức Maria và phương cách mà trong đó sự thánh thiện được tỏ lộ trong đời sống của người.

47 – Tôi không hiểu. Cha nói rằng trong học thuyết Công Giáo, Đức Maria vẫn là một trinh nữ, nhưng cha lại nói rằng Tân Ước nói đến “anh chị em” của Đức Giêsu. Tại sao Tân Ước lại gọi họ như vậy?


Trong khi Tân Ước sử dụng ngôn ngữ “anh chị em” của Đức Giêsu, nhưng chưa bao giờ sách khẳng định rằng đây là con cái của Đức Maria.

Trong Tân Ước có một chứng cớ mong manh rằng “anh em” ở đây không phải là anh em ruột. Khi Đức Giêsu bị đóng đinh, trong Mc 15:40 và Mt 27:56 có đề cập đến một phụ nữ đứng nhìn từ đằng xa, đó là “bà Maria mẹ của Giacôbê và Giuse”. Đây là tên của hai anh em của Đức Giêsu (Máccô 6:3 và Matthêu 13:55 nói đến bốn “anh em” của Đức Giêsu: Giacôbê, Giuse, Simon, và Giuđa), và trong khung cảnh này có lẽ họ là con của một phụ nữ khác tên là Maria. Dữ kiện này sẽ giúp xác nhận truyền thống hậu kinh thánh của cuốn Phúc Âm Nguyên Thuỷ của Giacôbê rằng “anh chị em” thì không phải là con của Đức Trinh Nữ Maria.

Tại sao lại dùng chữ “anh chị em”? Tôi đã nói rằng, thông thường chữ Hy Lạp này ám chỉ anh chị em ruột. Tuy nhiên, nếu có lý do để nghi ngờ rằng đây không phải là anh chị em ruột (và chỉ trong trường hợp này), chúng ta có thể tìm đến ngôn ngữ Semit (dân Do Thái) nằm dưới chữ Hy Lạp. Đàng khác, trong khi Hy Lạp có những từ về “anh chị em họ” (cousin), “con riêng” (step-brother), “con cùng cha khác mẹ” (half-brother),v.v. các từ Hy Lạp được dùng trong Phúc Âm có lẽ bị ảnh hưởng bởi Kitô Hữu thời tiên khởi, họ đề cập đến gia đình của Đức Giêsu theo tiếng Aramaic hay Hebrew. Không giống như tiếng Hy Lạp, các ngôn ngữ Semit này trong thời Đức Giêsu không có từ chính xác để chỉ những tương quan rộng trong gia đình. Thay vào đó, họ nghĩ đến bộ lạc, trong đó các phần tử của một bộ lạc, hay gia đình đều được coi là anh chị em, bất kể sự tương giao chính xác như thế nào. Một thí dụ cổ điển là việc sử dụng chữ “anh em” trong St 13:8 để diễn tả sự tương quan giữa ông Lót và ông Abraham, trong khi đúng ra Lót là cháu của ông Abraham. Dựa vào dữ kiện này, người ta có thể lý luận rằng những người được gọi là “anh chị em” của Đức Giêsu thì được chỉ định theo thuật ngữ “bộ tộc” Semit và sự thật là bà con xa – do đó không phải là con của Đức Maria.


48 – Tôi muốn biết Đức Giêsu nghĩ gì về chính mình. Người có biết mình là Thiên Chúa không?


Tôi phải đặt lại câu hỏi của bạn để có thể trả lời một cách dễ hiểu. Nhưng trước hết tôi phải nêu lên vấn đề là người hỏi muốn nói gì về chữ “Thiên Chúa”. Để thật đơn giản hoá, tôi sẽ nói rằng một người Do Thái sống trong một phần ba của thế kỷ thứ nhất sẽ nghĩ về “Thiên Chúa” là Đấng ngự trên các tầng trời. Do đó, câu hỏi đặt ra cho Đức Giêsu đang sống ở mặt đất, “Ngài có nghĩ mình là Thiên Chúa không?” sẽ có nghĩa rằng Đức Giêsu có nghĩ mình là Đấng đang ngự trên trời không. Và bạn thấy đó là một câu hỏi không thích hợp vì hiển nhiên Đức Giêsu đang ở trên mặt đất. Thực tế là chưa bao giờ Người bị hỏi như thế; gần nhất là Người được hỏi về sự tương giao với Thiên Chúa. Trong Mc 10:17-18: một người gọi Đức Giêsu là “thầy nhân lành,” và Đức Giêsu đã trả lời ông này, “Tại sao ông gọi tôi là nhân lành? Không ai nhân lành ngoại trừ một mình Thiên Chúa.” Quý vị có thể thấy rằng có một sự cách biệt giữa Đức Giêsu và chữ “Thiên Chúa”.

Tuy nhiên, quý vị có thể đúng khi vạch ra một thí dụ khác trong Phúc Âm, khi ông Tôma đã ca tụng Đức Giêsu khi gọi Người là “my Lord and my God” (Chúa là Thiên Chúa của con) (Gioan 20:28). Chìa khoá để hiểu cách nói này được tìm thấy trong Phúc Âm Thứ Tư, được viết trong những năm cuối cùng của thế kỷ thứ nhất. Tôi có thể nói rằng vào lúc ấy, dưới ảnh hưởng của việc tìm hiểu về Đức Giêsu, trong một cảm nhận nào đó, Kitô Hữu đã nới rộng ý nghĩa của chữ “Thiên Chúa”. Chữ này không còn chỉ về Chúa Cha ở trên trời nhưng còn bao gồm Chúa Con ở dưới đất. Họ nhận ra rằng Đức Giêsu rất mật thiết liên quan với Chúa Cha, đầy tràn sự hiện diện của Chúa Cha đến độ chữ Thiên Chúa được áp dụng cho Người cũng như cho Chúa Cha trên trời. Tôi muốn nhấn mạnh rằng điều này không làm thay đổi gì nơi Đức Giêsu; nó bao hàm một sự thay đổi và gia tăng nhận thức của Kitô Hữu về Đức Giêsu là ai. Sự gia tăng đó được tiếp tục đến độ trong Công Đồng Nicea vào đầu thế kỷ thứ tư, Kitô Hữu đã diễn tả Con Thiên Chúa là “Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (“true God of true God”). Ảnh hưởng của Đức Giêsu và sự suy nghĩ về Người đã thay đổi mọi ngôn ngữ thần học cho những ai tin vào Người, kể cả từ “Thiên Chúa”.

Bây giờ, cho phép tôi thay đổi câu hỏi của bạn theo cách này: Đức Giêsu có biết về căn tính của mình mà các môn đệ sau này mới hiểu bản chất Thiên Chúa của Người không? Nếu Người là Thiên Chúa, Người có biết mình là ai không? Tôi nghĩ câu trả lời đơn giản nhất là có. Hiển nhiên, không cách chi để minh chứng ngược lại bởi vì chúng ta không có đủ tài liệu nói về cuộc đời của Nguời. Tuy nhiên, tài liệu trong Phúc Âm cho chúng ta thấy Đức Giêsu luôn luôn ý thức về sự tương giao đặc biệt với Thiên Chúa mà điều đó giúp cho Người lên tiếng nói với một thẩm quyền đáng kính sợ. Trong Phúc Âm, không có hoàn cảnh nào mà Người khám phá ra một điều gì đó mà trước đây Người không bao giờ biết. Điều tôi nói thì trái ngược với một số quan điểm phổ thông cho rằng Đức Giêsu khám phá ra căn tính của mình khi thanh tẩy ở sông Giođan hoặc vào một thời điểm nào khác; nhưng không có chứng cớ gì cho quan điểm như vậy. Quang cảnh thanh tẩy là để giới thiệu cho độc giả biết Đức Giêsu là ai, chứ không phải để cho Đức Giêsu biết mình là ai.

49 – Đức Giêsu có thiết lập Hội Thánh không?


Trong cuốn sách của tôi Biblical Exegesis and Church Doctrine, tôi mạnh mẽ dùng kinh thánh để bảo vệ lập trường rằng Đức Kitô đã thiết lập hội thánh. Việc Đức Kitô thiết lập hội thánh là một phần căn bản của sự tự hiểu biết của Kitô Hữu. Nhưng thiết lập hội thánh không nhất thiết có nghĩa là Đức Giêsu biết mọi chi tiết về hội thánh sẽ như thế nào hoặc Người có thể vẽ ra hoạ đồ của hội thánh. Là một phần thiết yếu trong thừa tác vụ của Người, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ và đưa họ vào công việc; và Đức Giêsu phục sinh ban Thánh Thần cho họ để họ có thể tiếp tục công việc của Người. Các môn đệ góp phần cho sự liên tục giữa Đức Giêsu và hội thánh mà nó xuất hiện từ sự rao giảng của họ. Hội Thánh không chỉ là một tổ chức nhân bản, cũng không đơn giản là kết quả của một ý niệm của các môn đệ. Họ hiểu rằng lời mời gọi họ cùng tụ tập trong một cộng đồng là sự tiếp nối được trực tiếp phát sinh từ những gì Đức Giêsu đã thi hành khi Người gọi họ và sai họ đi để tiếp tục công việc của Người. Vì lý do đó tôi cả quyết rằng Đức Kitô thiết lập Hội Thánh.

50 – Còn các bí tích thì sao? Không phải là sự hiểu biết của chúng ta về bí tích ám chỉ rằng Đức Kitô trực tiếp thiết lập hay sao?


Tôi nghĩ chữ Đức Kitô ở đây rất đúng. Câu hỏi trước nói về việc thiết lập Hội Thánh của Đức Giêsu, và tôi không phản đối vì tôi nghĩ có sự liên tục giữa những gì Đức Giêsu đã thực hiện trong cuộc đời và đưa đến Hội Thánh. Tuy nhiên các công thức cổ điển để liên kết những thực tại hội thánh với Đức Giêsu ở Nagiarét thì phải bắt nguồn từ Đức Kitô. Các giáo phụ có trách nhiệm đưa ra các công thức đó đã không đơn giản nghĩ đến Đức Giêsu và các sứ vụ, nghĩa là, chính xác những gì Đức Giêsu nói và biết trước khi bị đóng đinh. Các giáo phụ nghĩ về toàn thể Tân Ước khi trình bầy về Đức Giêsu như Đấng Kitô, Mêsia, với những hiểu biết hậu phục sinh.

Được thiết lập bởi Đức Kitô có nghĩa rằng những hành động mà chúng ta gọi là bí tích, đó là những đặc điểm và những áp dụng của một quyền năng mà Đức Giêsu Kitô đã ban cho hội thánh trong và qua các tông đồ - một quyền năng cần để giúp vương quốc Thiên Chúa chiến thắng sự dữ bằng cách thánh hoá đời sống dân chúng từ lúc mới sinh cho đến chết. Các bí tích không phải là những phát minh của hội thánh, nhưng là một phần trong chương trình của Đức Kitô.

51 – Sự tương quan giữa Kitô Hữu tiên khởi và người Do Thái là gì?


Dĩ nhiên, mọi Kitô Hữu tiên khởi đều là người Do Thái. Tính chất Do Thái của Đức Giêsu và của những người đầu tiên tin vào Người đã giúp giải thích cho sự thiếu xót một kế hoạch của hội thánh. Không cần thiết lập cơ cấu mới bởi vì Do Thái Giáo đã có cơ cấu của nó: nó có hàng tư tế, tế lễ, phụng vụ, ngày lễ, và sự cai quản. Đức Giêsu không phải nghĩ về các vấn đề như vậy, miễn là rộng mở cho tinh thần cải tổ do sự đòi hỏi của việc công bố nước trời.

Sách Công Vụ Tông Đồ (3:1; 5:12) tường thuật rằng Phêrô và Gioan và các phần tử khác của Nhóm Mười Hai, nói tóm, là những nhân vật nổi nang của những ngày đầu, đến Đền Thờ để cầu nguyện. Hình ảnh này cho thấy đức tin của họ nơi Đức Giêsu không mâu thuẫn với sự thờ phượng ở Đền Thờ. Trong Mc 12:29, Đức Giêsu chỉ dẫn độc giả hãy ngâm nga câu kinh “Hãy nghe đây Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất,” đó là Shema hay lời cầu nguyện căn bản nhất của Do Thái. Bài thánh ca như Benedictus (Lc 1:68-79) thì có hình thức và văn phong của thánh ca Do Thái Giáo trong thời Tân Ước.

52 – Điều gì đưa đến sự tách biệt giữa Kitô Hữu với Do Thái Giáo?
Đây là câu hỏi không dễ trả lời, một phần là vì chúng ta chỉ nghe được từ một phía. Không có tài liệu nào của Do Thái thời bấy giờ để cho biết về phản ứng của người Do Thái không tin vào Đức Giêsu, và của những người tin vào Đức Giêsu. Nếu chúng ta dùng tài liệu của Kitô Giáo, cộng với nhận thức thông thường, câu trả lời hay nhất là sự tách biệt Kitô Hữu với Do Thái Giáo xảy ra trong nhiều vùng khác nhau vào thời điểm khác nhau với những lý do và âm điệu khác nhau.

Một yếu tố của sự tách biệt này là con số Kitô Hữu Dân Ngoại sống chung với Kitô Hữu Do Thái trong một khu vực nào đó. Trong hội đường, phần lớn là người Do Thái không tin vào Đức Giêsu, họ sẽ khó chịu nếu ở giữa họ có một người ngoại giáo cho rằng mình cũng thuộc về Israel bởi vì họ tin vào Đức Giêsu. Tại những nơi và thời điểm khác, toàn thể hội đường người Do Thái có thể tin vào Đức Giêsu, hoặc những người trở thành Kitô Hữu có thể thành lập hội đường cho chính mình. Những hội đường không phải của Kitô Hữu có thể không cảm thấy ép buộc phải có hành động với một số hội đường của Kitô Hữu. Điều đó có nghĩa rằng một số hội đường Kitô Hữu có thể nghĩ rằng họ không bị tẩy chay bởi Do Thái Giáo trong một thời gian đáng kể.

Ngoài ra, mức độ thu phục tín đồ khi rao giảng phúc âm cũng có thể là một yếu tố. Những người Do Thái tin vào Đức Giêsu tiếp tục rao giảng cho người Do Thái khác – điều đó sẽ tạo nên sự chia cách trong một hội đường và có thể dẫn đến sự tẩy chay. Một yếu tố khác là phương cách mà tín hữu Kitô bảy tỏ sự thẩm định của họ về Đức Giêsu, nghĩa là, ngôn ngữ kitô giáo.
Chắc chắn còn nhiều yếu tố khác, nhưng những gì tôi trình bầy có thể thúc giục sự tách biệt giữa Kitô Hữu và Do Thái Giáo, qua sự tẩy chay khỏi hội đường (Gioan 9:22, 34; 16:2), trong khi ở các khu vực khác một bầu khí êm đềm hơn khi Kitô Hữu Do Thái vẫn tham dự trong các hội đường mà không có xung đột lớn. Từ thập niên 50 cho đến khoảng 125 – 150, tiến trình tách biệt vẫn tiếp tục cho đến sau cùng, Kitô Hữu và Do Thái được coi là đại diện cho những tôn giáo khác nhau.

53 – Mười Hai Tông Đồ đã đóng vai trò lớn lao như thế nào trong Hội Thánh Tiên Khởi?


Để trả lời câu hỏi này, tôi cần phân biệt giữa Nhóm Mười Hai và các tông đồ. Công thức “Mười Hai Tông Đồ” xuất hiện sau này trong Tân Ước, nhưng nó góp phần diễn tả cách ngắn gọn những người có hai vai trò khác nhau.

Công thức tiên khởi là “Nhóm Mười Hai”. Nó gồm một nhóm người được Đức Giêsu chọn để tượng trưng cho sự khôi phục Israel. Câu nói duy nhất của Đức Giêsu về tính cách tượng trưng của Nhóm Mười Hai là họ ngồi trên (mười hai) ngai xét xử mười hai chi tộc Israel (Mt 19:28; Lc 22:30). Ngay khởi đầu của Israel trong tường thuật kinh thánh, có mười hai tổ phụ từ mười hai chi tộc. Tại thời điểm quan trọng này trong sự khôi phục Israel, có mười hai người mà Đức Giêsu chọn để tượng trưng cho mười hai chi tộc của Israel mới. Họ là những nhân vật thời cánh chung vì vai trò của họ là các thẩm phán trên các ngai toà trên trời. Phaolô biết họ đã hiện diện vào thời gian Đức Giêsu phục sinh bởi vì ông đã nhắc đến họ trong 1 Cor. 15:5. Trong CVTĐ cũng nhắc đến nhóm này khi diễn tả sinh hoạt hội thánh thời tiên khởi ở Giêrusalem (CVTĐ 6:2). Thật vậy, dường như, họ chính yếu liên hệ với Giêrusalem, và điều đó không ngạc nhiên. Nếu họ là một phần trong sự phán xét, CVTĐ 1:11-12 có thể ám chỉ rằng Đức Giêsu được mong đợi sẽ trở lại để xét xử trên Núi Cây Dầu ở Giêrusalem. Trong sách CVTĐ, các phần tử của nhóm Mười Hai được thấy hoạt động bên ngoài Giêrusalem là Phêrô và Gioan; và điều đó được Phaolô xác nhận khi ông nhắc đến Phêrô (Cephas) là một nhân vật đến Antioch (Gal 2:11) và là người nổi tiếng trong cộng đoàn Corintô.

Từ “Nhóm Mười Hai” đi sang “các tông đồ” chúng ta thấy trong Tân Ước, “các tông đồ” có nhiều ý nghĩa và chắc chắn rằng rộng hơn Nhóm Mười Hai. Hãy so sánh I Cor. 15:5 và 7 để thấy “tất cả các tông đồ” là một nhóm đông hơn “Nhóm Mười Hai.”

Với Phaolô, dấu chỉ của một tông đồ là người được thấy Chúa Giêsu phục sinh và được sai đi rao giảng về Người, làm chứng ở nhiều nơi bằng lời nói và sự đau khổ.

54 – Tôi thường nghĩ Mười Hai Tông Đồ điều khiển toàn thể hội thánh. Nếu không phải vậy, Hội Thánh Tiên Khởi được tổ chức thế nào? Ai điều khiển?


Như câu trả lời ở trên, tôi thấy vai trò của Nhóm Mười Hai có tầm quan trọng ở tính cách tượng trưng cho một Israel được khôi phục; và tôi nghĩ về Hội Thánh Tiên Khởi như hiện thân của Israel này. Hội Thánh Tiên Khởi không coi mình là một thực thể tách biệt với Israel. Do đó, Nhóm Mười Hai diễn tả một công việc quan trọng cho sự hợp nhất của các cộng đồng Kitô Hữu tiên khởi. Tuy vậy, họ không được trình bầy như những người cầm quyền các cộng đồng. Thật vậy, trong CVTĐ 6:2, việc từ chối phục vụ bàn ăn là một cách diễn tả sự từ chối dính dáng đến việc cai quản nhóm Kitô Hữu. Dù là toàn thể, hay cá nhân, Nhóm Mười Hai không được diễn tả là “điều khiển” một giáo hội địa phương.

Về cách phát triển các nhóm Kitô Hữu địa phương, chúng ta chỉ được biết một phần. Không có một tài liệu Tân Ước nào diễn tả điều này; thay vào đó chúng ta phải dựa vào những ám chỉ tình cờ. Trong CVTĐ 6:5, chúng ta thấy bẩy người lãnh đạo được giao cho việc cai quản cộng đồng Kitô Hữu người Hy Lạp. Trong khi chương này không nói rõ ai là người cai quản cộng đồng, trong các đoạn sau (CVTĐ 12:17; 15:4, 13; 21:18) chúng ta tìm thấy có nhắc đến Giacôbê, người anh em của Chúa, và các kỳ lão có vai trò lãnh đạo trong Hội Thánh ở Giêrusalem.

Trong I Thes 5:12, Phaolô nói về một số người có quyền trên người khác trong cộng đồng tiên khởi ở Thessalonica, khoảng năm 50 AD. Trong một lá thư sau đó không lâu, 1 Cor. 12:28, Phaolô nhắc đến sự tồn tại của một số ơn đoàn sủng hay ơn Chúa có liên hệ đến vai trò lãnh đạo cộng đồng ở Côrintô:

Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các tông đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ.

Chúng ta không biết chắc “người quản trị” làm công việc gì trong cộng đoàn như vậy mà trong đó cũng có các ngôn sứ và thầy dậy. Trong phần giới thiệu của thư Philípphê (1:1), Phaolô cho thấy sự hiện diện của các giám mục và phó tế của giáo đoàn đó, nhưng chúng ta không biết những nhân vật này làm gì.

Cho đến thời Ignatius ở Antiôkia (110 AD) trong một số vùng của các giáo hội ở Tiểu Á và Hy Lạp đã có sự phát triển một khuôn khổ là một giám mục trông coi toàn thể giáo hội địa phương, với các linh mục và phó tế ở bên dưới. Điều đó trở thành khuôn mẫu của giáo hội vào cuối thế kỷ thứ hai.

55 – Còn học thuyết về các giám mục là người kế vị các tông đồ thì sao?


Bạn rất đúng. Đó là một học thuyết của Công Giáo. Tôi không thấy lý do tại sao lại phải giải thích chứng cớ Tân Ước như một nguy hại cho học thuyết này một khi nó được hiểu cách thích hợp, và một khi nói về “các tông đồ” và “các giám mục” một cách chính xác. Trong câu trả lời ở trên (c. 52) có sự phân biệt giữa vai trò của Nhóm Mười Hai và vai trò của các tông đồ, dù rằng một số vị đội “cả hai cái mũ”. Học thuyết này không ám chỉ rằng các giám mục là những người kế vị Nhóm Mười Hai. Thật vậy, vì chỉ có mười hai ngai toà để xét xử mười hai chi tộc Israel, không thể có hơn mười hai người đóng vai trò đó. Trong Hội Thánh Tiên Khởi không có một đề nghị gì để thay thế phần tử của Nhóm Mười Hai khi họ từ trần. (Giuđa được thay thế vì ông đã từ chối vai trò này trong Nhóm Mười Hai, và phải có mười hai người để khởi đầu sự khôi phục Israel, vì lẽ có mười hai tổ phụ của Israel cũ).

Mặt khác, các tông đồ có vai trò ra đi khắp nơi và rao giảng phúc âm và thành lập cộng đoàn các tín hữu. Phải có ai đó đảm nhận việc chăm sóc mục vụ của các cộng đoàn được phát sinh từ sứ vụ tông đồ này. Như tôi đã nói, vào cuối thế kỷ thứ ba và có lẽ sớm hơn một chút, chúng ta tìm thấy danh xưng “giám mục” cho những ai đóng vai trò lãnh đạo trong một số cộng đoàn. Trong giai đoạn tiên khởi, có nhiều giám mục hay người trông coi (overseer) trong một cộng đoàn riêng biệt; trong giai đoạn sau này có truyền thống chỉ có một giám mục cho một cộng đoàn. Do đó, người ta có thể đúng khi nói rằng các giám mục đảm trách việc chăm sóc mục vụ của các cộng đoàn được thiết lập bởi việc truyền giáo tông đồ và vì vậy họ là những người kế vị các tông đồ.

Sự kế vị tông đồ không cho biết các giám mục tiên khởi đã được chọn lựa hay được chỉ định như thế nào. Suy diễn từ cách thực hành của người Do Thái, và dựa trên sự diễn tả việc Phaolô bổ nhiệm Timôtê (trong II Tim 1:6), một số người nghĩ đến việc đặt tay. Mặt khác, trong sách Didache 15:1 (khoảng năm 100) nói các Kitô Hữu hãy tự chọn các giám mục và phó tế. Hơn thế nữa, chúng ta có thể cho rằng còn nhiều cách khác để bổ nhiệm giám mục. Tỉ như, vì các giám mục trưởng lão (presbyter-bishop) là những người có kết hôn, rất có thể họ sắp xếp để con cái kế vị họ. Đó là một thời kỳ mà chúng ta không có đủ dữ kiện. Sau cùng Hội Thánh đã hình thành một khuôn khổ tuyển chọn và tấn phong các giám mục, và từ thế kỷ thứ ba trở đi nó đã trở thành phổ quát.

56 – Tôi thấy cha không nhắc nhở gì đến chức linh mục. Tại sao vậy?


Tôi chú trọng phần lớn đến hình ảnh Tân Ước và ngay sau thời Tân Ước. Trong tất cả các tài liệu đó, chữ “linh mục” không bao giờ được áp dụng cho một thừa tác viên Kitô Giáo. Khi người ta hỏi tôi, Đức Giêsu nghĩ gì về các linh mục, câu trả lời tiêu chuẩn của tôi là khi có những chữ liên quan đến thái độ của Đức Giêsu đề cập đến các tư tế, những chữ ấy nói về người có chức năng trong Đền Thờ Do Thái để dâng lễ vật. Không có bất cứ dấu chỉ nào là Đức Giêsu dùng chữ “tư tế” để ám chỉ các môn đệ hoặc một thừa tác viên của cộng đoàn tương lai. Điều đó không có nghĩa rằng thừa tác viên của cộng đoàn tương lai này thì không được Đức Kitô thiết lập. Các tác vụ xuất phát từ các hành động của Đức Giêsu; và vì chức linh mục thừa tác Kitô Giáo thì liên hệ mật thiết với Thánh Thể, chức linh mục xuất phát từ những gì Đức Giêsu thi hành trong Bữa Tiệc Ly. Nhưng về thuật ngữ chức linh mục phải phản ánh chính cảm nghiệm của Đức Giêsu là một người Do Thái, và đã có các tư tế Do Thái rồi.

Trong giai đoạn sau thời Tân Ước chúng ta thấy toàn thể cộng đồng Kitô Hữu là “sở hữu riêng của Thiên Chúa”, họ được gọi là “hàng tư tế vương giả” (1 Ph 2:9). Điều đó đưa đến sự sai lầm khi nói rằng “chức tư tế của giáo dân”; đúng hơn đó là chức tư tế của toàn thể dân Chúa, không được giảm thiểu bằng cách phân biệt giữa giáo sĩ và giáo dân – của lễ hy sinh mà một tư tế dâng lên đó là một đời sống tốt lành để vinh danh Thiên Chúa (1 Ph. 2: 12 và 2:5). Chúng ta cũng thấy chính Đức Giêsu được đề cập đến như một tư tế, rõ ràng nhất là trong Thư gửi tín hữu Do Thái. Tuy thư này cho biết một chữ thường dùng để chỉ hàng tư tế lêvi của Do Thái nhưng nó giải thích rằng Đức Giêsu không phải là một tư tế lêvi mà là một tư tế theo phẩm hàm Melchisedek, vừa là tư tế vừa là vua của Giêrusalem, không phải là một người thuộc Lêvi và chức tư tế không lệ thuộc vào nguồn gốc phả hệ. Cho đến nay, tôi biết vào khoảng năm 200, chữ “tư tế” bắt đầu được áp dụng cho giám mục và mãi sau này mới được áp dụng cho trưởng lão. Khi Thánh Thể bắt đầu được nghĩ là một của lễ hy sinh, người được giao cho nhiệm vụ chủ tọa nghi thức thánh thể (giám mục và sau này trưởng lão) được gọi là tư tế, vì tư tế có dính dáng đến của lễ này.


Copyright © 2011 by www.nguoitinhuu.com